Nguyễn Hữu Lễ: TÔI PHẢI SỐNG 13

TRANG  QUYỀN DÂN                       
DĨ ĐỨC VI TIÊN - THỨ CHI DÂN CHỦ - DÂN QUYỀN TỐI THƯỢNG - NHIÊN HẬU PHÚ CƯỜNG
Việt Nam không có Nhân Quyền - Nên ta phải lấy Quyền Dân để đòi
GOD! PLEASE HELP US STOP THE INVASION OF CHINA AND END THE COMMUNIST DICTATORSHIPS OF VIETNAM
Tổ quốc lâm nguy, Việt cộng đè, Trung cẩu lấn - Kề vai sát cánh, đồng tâm chung sức cứu non sông
Hồi ký TÔI PHẢI SỐNG
Linh mục Nguyễn Hữu Lễ

https://vantholacviet.com   http://viteuu.blogspot.com

❏ Tái đăng ngày: 02/01/2020

43
Tầng Đầu Địa Ngục (3)
Luật giang hồ
T


ù hình sự có nguyên tắc và giai cấp rất rõ ràng, gồm các vị thế như sau: anh em, người ngoài, bề dưới, kẻ thù. Một khi đã kết nghĩa anh em là sẽ sống chết vì nhau, cho dù trong bất cứ hoàn cảnh nào. Người ngoài là những người có thể ngồi chung mâm nhưng không can thiệp vào chuyện của nhau. Bề dưới là phải tùng phục bề trên vô điều kiện, nhưng bề trên đúng nghĩa là người biết thương bề dưới. Kẻ thù là hạng người phải tiêu diệt bằng bất cứ giá nào và ở đâu. Trong nhóm tù hình sự cùng về đây, chỉ có Bình Bưởi là anh em với Bình Thanh. Bình Bưởi nhỏ con, ốm yếu và đi tù từ năm 12 tuổi nên Bình Thanh thương yêu và săn sóc cách đặc biệt. Những anh còn lại, hoặc là người ngoài, hoặc bề dưới. Chỉ có một anh thuộc diện kẻ thù, tôi sẽ nói sau.

Nhóm Bình Thanh tới được vài ngày thì có một anh tên là Thụ ở buồng phía sau có gia đình vào tiếp tế. Anh này còn gọi là Thụ Con vì người nhỏ thó. Sau khi thăm gặp về, Thụ phạm một lỗi lầm quá nghiêm trọng, đó là quy luật về sự phục tùng của kẻ bề dưới. Có lẽ nó còn quá khờ hoặc là quá khinh suất nên thay vì làm theo nguyên tắc là mang tất cả quà gia đình mới tiếp tế tới chỗ Bình Thanh và nói: “Anh Bình, gia đình em vừa vào thăm cho ít quà, xin anh dùng chút quà mọn của gia đình em.” Chắc chắn là Bình Thanh sẽ cười và nói: “ĐM, người nhà mày mang vào thì mày liếm đi! Có thuốc lào không, cho anh em tao vài bi được rồi!” Và mọi việc sẽ tốt đẹp. Đàng này, mãi tới chiều hôm đó, Thụ Con mới nắm một ít thức ăn, một ít ruốc và mấy ấm chè tới biếu. Tôi nghe Bình Thanh quát:
- ĐM mày, tao đâu có chết đói mà mày làm thế. Mày làm nhục tao đấy à? Mang về ngay!

Thụ còn đang đứng, Bình Thanh nổi nóng:
- ĐM, tao bảo mày cút ngay!

Thụ sợ quá, cầm gói thức ăn về. Mấy hôm liền, mặt mày Thụ tái mét vì sợ. Rủi cho anh ta, vài ngày sau đổi buồng và cán bộ đưa Thụ vào buồng Bình Thanh. Thụ đứng ngoài khóc rống lên và nhất định không vào, nhưng cuối cùng cán bộ đẩy anh ta vào khóa cửa lại. Có thể dùng hình ảnh con nai tơ bị nhốt vào chuồng sư tử để diễn ta nỗi sợ hãi của Thụ Con lúc bấy giờ. Biết như vậy, nên từ bên này, tôi gọi qua cho Bình Thanh bảo đừng đánh thằng Thụ, tội nghiệp nó. Bình Thanh trả lời:
- Vâng, em nghe anh, em chẳng làm gì nó đâu!

Và Bình Thanh để cho Thụ được yên, chẳng đá động gì tới chuyện mấy hôm trước. Nhưng có lẽ vì quá sức khiếp sợ, nên chiều hôm đó khi trật tự vừa mở cửa buồng cho ăn, Thụ vụt chạy như bay xuống cổng trại báo cáo cán bộ trực xin cho đổi buồng, lấy lý do là Bình Thanh cướp cơm của nó ăn! Chỉ có lý do đó mới đủ mạnh để mong được đổi buồng. Nhưng nó không ngờ là nó đang đọc bản án cho chính mình. Cán bộ dẫn nó lên và bắt nó vào buồng trở lại.

Khi cán bộ khóa cửa và đi xuống rồi, từ bên này tôi còn nghe được cơn thịnh nộ của Bình Thanh. Khi cơn thịnh nộ nổi lên, Bình Thanh định giết chết thằng Thụ Con vì lần đầu tiên trong đời bị nó làm nhục là nói anh ta cướp cơm của tù để ăn. Một sự hạ nhục quá sức chịu đựng của Bình Thanh. Bên kia Bình Thanh vừa chửi vừa “chưởng”, trong khi Thụ khóc lóc van lạy xin tha mạng. Tôi lại phải gọi sang nói chữa là vì nó sợ quá nên nói bậy, đánh như thế nó biết tội rồi. Có tiếng Bình Thanh trả lời:
- Anh coi đó, dám bảo em chấn cơm! Anh bảo thì em tha mạng cho nó, nhưng em phải xin nó bộ ngà!
- Nói xong, tôi nghe tiếng Bình Thanh:
- ĐM mầy! Anh tao bảo, tao mới tha tội chết cho mày. Nhưng hòn đá đây, mày phải ghè cho hết bộ ngà, không chừa một chiếc nào. Mày tự làm hay muốn tao làm?

Không còn cách gì hơn, Thụ Con phải tự tay dùng hòn đá đập gãy không còn sót một chiếc răng nào! Chừng đó, Bình Thanh mới chịu tha cho. Lạ một điều là từ đó về sau, Thụ Con theo hầu Bình Thanh như hình với bóng!

Nhân vật Sửu Què

Sau khi trật tự Đạt được tha về và trật tự Bảy Chà lên thay, cuộc sống chúng tôi trên khu kỷ luật thoải mái hơn. Anh Bảy Chà còn lén cán bộ mở cửa cho chúng tôi chạy ra sân chơi và còn giúp chuyển quà cáp từ buồng này qua buồng kia, hoặc từ dưới làng lên kỷ luật. Đó là ân huệ mà lúc Bùi Đình Thi còn làm trật tự, chúng tôi nằm mơ cũng không thấy. Khi tôi bị chuyển ra buồng 4 phía sau, Bình Thanh vẫn ở buồng 3 phía trước chung với Tiến Ngựa và Sửu Què cùng nhóm với nhau.

Một buổi trưa, cán bộ dẫn lên một người tù miền Nam là anh Nguyễn Đức Khuân vì tội gửi thư chui bị bại lộ, trong thư lại có bản nhạc gọi Hồ Chí Minh là “con quỷ đỏ”. Khuân bị một trận đòn trên bờ dưới ruộng, bị đi cùm và đẩy vô buồng của Bình Thanh. Khuân là bạn rất thân của tôi, nên tôi gọi Bình Thanh và nói:
- Bình Thanh! Anh Khuân là bạn thân của anh đó. Hãy coi anh Khuân như chính anh nhé!

Bình Thanh đáp vọng lại:
- Vâng! Em biết rồi anh Út!

Khuân là người vui vẻ, ăn nói có duyên và rất giỏi nhạc. Gặp Bình Thanh là người thích tìm tòi học hỏi, nhất là các chuyện về miền Nam, nên hai người cũng tương đắc và quý nhau. Bình Thanh kính Khuân như người anh, điều này, vô tình lại làm Sửu Què khó chịu. Sửu bị ai đó đâm trúng gân chân nên đi hơi lệch, vì thế có tên là Sửu Què. Anh ta có ân oán gì đó với Bình Thanh từ ở trại nào trước kia, nhưng vào đây, Bình Thanh bỏ qua không muốn nhắc lại nữa. Một buổi trưa, trong lúc Khuân đang kể chuyện và Bình Thanh đang hứng thú lắng nghe, Sửu Què không dằn được cơn bực tức, đã chửi Khuân:
- ĐM, toàn nói phét!

Khuân nghe Sửu Què chửi, dừng lại không kể chuyện nữa, trong khi Bình Thanh đùng đùng nổi giận. Thứ nhất, Sửu Què dám hỗn với Khuân là người tôi dặn Bình Thanh hãy đối xử như với tôi. Do đó, khi chửi Khuân thì cũng như chửi tôi. Tội này rất nặng! Điều thứ hai là Bình Thanh và Tiến Ngựa đang hứng thú nghe các chuyện về miền Nam. Bị cụt hứng bất thần, Bình Thanh vùng dậy, rút con dao làm bằng thanh sắt đập dẹp mà lúc nào cũng giấu trong gối, đè Sửu Què xuống, dí dao vào cổ chửi và đòi đâm. Khuân phải can ngăn mãi mới xong. Nhưng từ lúc đó, bầu khí trong buồng nặng nề, câm lặng và bực dọc. Sau đó, có lẽ vì số chết của Sửu Què đã tới nên mới khiến anh ta đến bên Bình Thanh đang ngồi thở hồng hộc vì bực tức, xin lỗi và nói:
- Anh Bình Thanh hãy nhìn vào cặp mắt tôi coi. Tôi có phải là con người gian ác gì đâu mà anh nói tôi như thế!

Đang lúc bực tức và lại nghe Sửu Què biện bạch, Bình Thanh nhìn vào mắt nó và nhớ lại ân oán năm xưa. Bình Thanh bèn đè cổ Sửu Què xuống, dùng con dao ngoáy móc mắt Sửu Què làm anh ta kêu la vang dội cả khu kỷ luật. Khi cán bộ lên tới nơi và mở được của buồng ra thì một con mắt của Sửu Què đã nằm dưới đất và Bình Thanh đang đè ngoáy dao vào con mắt thứ hai. Nhờ Sửu Què giãy giụa quá nên con mắt thứ hai chưa kịp móc thì cán bộ đã vào tới buồng và giải thoát cho anh ta. Khi thấy cán bộ vừa chạy lên, Bình Thanh dùng con dao rạch một đường trên cánh tay mình cho máu chảy ra. Lúc cán bộ bước vào buồng, Bình Thanh cầm con dao đưa cho cán bộ coi và nói:
- Báo cáo cán bộ! Anh Sửu vào dây còn dấu được con dao trong ống điếu. Lúc nãy, tôi đang ngủ say, không hiểu nguyên do gì anh ta đâm tôi. May mà tôi đỡ kịp nên chỉ thương ở cánh tay, máu còn đang chảy, cán bộ xem này!

Tiến Ngựa vội thêm:
- Báo cáo cán bộ! Anh Sửu hăm dọa giết anh Bình từ lâu rồi. Lúc nãy, nếu tôi không la lên kịp thì nó đã đâm anh Bình thủng tim rồi!

Đúng là miệng lưỡi của lưu manh có khác! Cán bộ nghe thế mắng cho Sửu Què một trận, tịch thu con dao và đưa anh xuống trạm xá băng bó vết thương. Cán bộ không nói gì Bình Thanh vì anh ta là “nạn nhân” chỉ tự vệ! Câu chuyện này chưa chấm dứt ở đây.

Khi Sửu Què đang nằm bênh xá thì Bình Thanh nhắn đàn em dưới làng “cất” giùm Sửu Què. Quãng nửa tháng sau, Sửu mang một mắt trở về làng, ở chung với đàn em của Bình Thanh. Ngay đêm đầu tiên, khi Sửu đang ngồi uống chè trên sàn bên kia, thì bên này, Tuấn Béo cầm con dao rừng nhảy phắt qua, chém một phát chẻ đầu Sửu Què ra làm đôi, chết không kịp trối. Tuấn béo bị đưa lên kỷ luật ngay đêm đó, nằm một mình một phòng riêng. Sau này, có tòa án lập ngay trong trại, xử Tuấn Béo 18 năm tù.

Cuộc tương phùng

Sau vụ Sửu Què bị chém chết một thời gian, khu kỷ luật lại đổi buồng và cán bộ chỉ định tôi vào buồng 5, nơi có ba anh Trung Quốc là Lý Đức Nghĩa, Chu Vạn Hồi và Lưu Tùng đang ở. Nhưng tôi xin với cán bộ cho đi buồng khác. Trước đó mấy ngày, tôi cũng biết vụ mấy anh Trung Quốc trong buồng này đánh một anh tù hình sự tét đầu chảy máu. Anh ta đã la ầm lên trong đêm và cán bộ phải lên đưa anh đi bệnh xá. Nhưng không phải vì chuyện đó mà tôi xin đổi buồng khác, vì lúc đó tôi đâu có biết hết tính cách nghiêm trọng của vụ đánh người này. Tôi xin đi nơi khác là vì mới vừa trừng trị Lý Đức Nghĩa khi nó cướp bánh chưng của một người tù già. Sau vụ đó, chúng tôi bị đổi đi mỗi người một nơi, bây giờ mà gặp lại trong một buồng chắc chắn sẽ có vấn đề lớn. Cán bộ nghe qua có lý và cho tôi ra phía trước, vào buồng 2 với Bình Thanh và đưa Phi Tàu vào buồng 5 thay tôi.

Được vào buồng 2 với Bình Thanh, tôi vô cùng sung sướng. Từ khi Bình Thanh về đây đã hơn một tháng rồi, nhưng anh em tôi chỉ gặp được nhau trong các giờ mở cửa cho ăn và lúc đi tắm dưới sông Mã. Lúc khác thì gọi nhau từ buồng này qua buồng khác nói chuyện mà chưa bao giờ được sống chung buồng như anh em tôi mong muốn.

Khi thấy tôi ôm chăn chiếu theo cán bộ từ phía sau đi vòng ra phía trước và đứng trước của buồng 2, Bình Thanh đứng bên trong nhìn ra mừng quá nói to:
- Bình Bưởi đâu? Đưa đôi giày vải đây cho anh! Anh phải ‘tả’ cho anh Út một trận trước khi vào buồng này!

Bình Thanh nó trêu tôi như thế.

Trong lúc đứng chờ cán bộ mở cửa buồng, tôi nhớ lại trong sáu buồng của khu kỷ luật này, không có buồng nào mà tôi chưa ở qua. Mỗi buồng đều có một kỷ niệm riêng, nhưng chưa bao giờ tôi bước vào buồng nào với tâm trạng vui mừng và sung sướng như lúc đang chờ để vào buồng 2 với người em kết nghĩa của tôi như lúc này.

Tôi vừa bước vào, chưa kịp để đồ đạc xuống thì Bình Thanh đã ôm chầm lấy tôi và hôn lấy hôn để lên tóc, lên trán, lên mặt tôi và anh em tôi ôm nhau một hồi lâu. Sau đó, Bình Bưởi cũng tới ôm lấy tôi để nhận anh nhận em, trong khi Bình Thanh quay lại bảo hai anh kia:

- Thằng Thịnh với thằng Trọng Loe, đây là anh tao! Chúng mày phải biết sống sao cho phải.

Khi nghe Bình Thanh nói thế, tôi nghĩ đây chỉ là sự giới thiệu thôi. Tôi không ngờ đó là một cái lệnh và lệnh rất nghiêm như tôi sẽ kể dưới đây.

Trong buồng lúc đó đã 4 người, tôi vào là 5, nên một người được cán bộ cho khỏi phải cùm là Trọng, còn gọi là Trọng Loe vì mồm anh rất rộng. Trọng Loe lớn hơn Bình Thanh chừng vài ba tuổi nhưng thuộc dạng bề dưới và không được ngồi ăn chung. Còn anh kia tên Thịnh, mệnh danh là Thịnh Capitaine. Tôi không hiểu tại sao anh có tên đệm tiếng Tây như vậy. Anh này cỡ tuổi với Bình Thanh nhưng người ốm yếu hơn so với Bình Thanh. Thịnh thuộc diện người ngoài, được ngồi chung mâm nhưng chẳng có liên hệ gì với nhau. Tôi nằm chung thớt cùm với Bình Thanh và nằm bên trong.

Tôi cảm thấy mệt mỏi, vì mỗi lần chuyển buồng là phải khám xét đồ đạc, phải khuân vác và nhiều chuyện lỉnh kỉnh khác. Mặc dù lúc đó người tôi đã khá hơn rất nhiều, nhưng vì cùm lâu quá nên một chân tôi gần như bại liệt và điều kiện sống trong kỷ luật đã làm thân thể tôi hao mòn. Tôi nằm xuống nghỉ ngơi và tự nhiên cảm thấy lạ lùng cho cuộc đời tù của tôi. Lúc này, tôi là một Linh mục đang bị nhốt chung buồng với một tướng cướp khét tiếng của miền Bắc và vài tên lưu manh khác. Nhưng lạ lùng thay, đây là con người mà tôi yêu thương một cách đặc biệt.

Tôi thấy trong lòng dâng lên niềm vui khó tả khi nhìn thấy Bình Thanh đang ngồi thu xếp các thứ đồ đạc của tôi cho gọn trong lúc tôi nằm nghỉ. Lần đầu tiên tôi mới thấy Bình Thanh cởi trần, để lộ cái lưng rộng bè bè và bộ ngực nở nang, bụng thon và cặp chân rắc chắc. Bình Thanh xâm trổ nhiều hơn tôi tưởng, cả trước ngực và sau lưng. Phía trước là hình “lưỡng Long tranh Châu”, hai con rồng thật to tranh nhau trái châu. Phía sau là hình Phật Bà Quan Âm chiếm trọn cái lưng. Bên dưới có hình lư hương đang tỏa khói và bên dưới nữa là hai hàng chữ:
"Khi tôi chết ai là người xây nấm mộ
Cỗ quan tài ai khóc tiễn đưa tôi?"


Hai bên cánh tay cũng xâm hình ngọn đuốc tự do, bên kia là cây kiếm báu. Sống lâu với tù hình sự, tôi nghiệm ra hai thứ để làm thành một anh tù thuộc diện lưu manh. Đó là xâm trổ và chửi thề hai tiếng ĐM! Thiếu một trong hai thứ đó không thể là một “lưu manh toàn diện” được.

Tư cách một đàn anh

Lúc mở cửa cho ăn, chúng tôi được ra ngoài chạy chơi, phơi áo quần và rửa buồng. Những việc này chỉ có được từ khi anh Bảy Chà làm trật tự. Khi mang thức ăn vào buồng, chính Bình Thanh đứng ra chia thức ăn. Trong buồng có 5 người nên Bình Thanh chia ra làm 5 phần bằng nhau. Sau khi chia, anh gạt ngay 2 phần cho Trọng Loe, nói:
- Mày làm nhiều, mày ăn nhiều!

Bốn người còn lại chỉ có 3 phần ăn để chung vào nhau và lúc nào Bình Thanh cũng nói:
- Anh với Bình Bưởi 'liếm' đi! Em chết thế nào được!

Và Bình Thanh nhường phần ăn của mình cho anh và cho em, còn anh ta chỉ ăn một chút để đừng chết đói. Sau này khi có ai cho thứ gì, nếu nhiều thì Bình Thanh ăn một tí, còn ít thì Bình Thanh nói:
- Thôi anh với Bình Bưởi liếm đi!

Có lần, chị tôi từ miền Nam ra thăm trong khi tôi đang sống chung buồng với Bình Thanh, khi trở vào buồng, tôi có mang theo một ít thức ăn. Bình Thanh chỉ để lại một phần vừa đủ cho 5 người trong buồng ăn một bữa, còn lại bao nhiêu phân chia từng gói nhỏ và đem phân phát cho tất cả các buồng trong khu kỷ luật. Tới buồng nào anh cũng nói:
- Đây là quà của anh tao cho. Chị tao từ miền Nam mang ra, chúng mày ăn lấy thảo với anh em tao!

Dĩ nhiên, chúng tôi cũng dành ra một chút quà để gửi qua cho các Linh mục đang ở khu kiên giam Nhà Bằng, chỉ cách một bức tường với khu kỷ luật. Tôi rất hài lòng với việc làm này của Bình Thanh, vì anh em tôi vẫn nói với nhau, kiếp tù là khổ chung, làm gì để an ủi và cho nhau một chút niềm vui cũng là điều nên làm. Khi làm như vậy, chính Bình Thanh cũng muốn mua nhân nghĩa và để mọi người quý mến tôi.

Trong lần chị ra thăm đó, tôi được gặp chị 15 phút. Tôi đã nói với chị thật nhiều về Bình Thanh là người em kết nghĩa. Tôi cũng nói là sẽ có ngày Bình Thanh tìm tới thăm chị dưới một hình thức ngụy trang nào đó. Vì từ khi gặp nhau, chúng tôi đã hoạch định một kế hoạch vượt ngục rồi.

Trong buồng, Trọng Loe thuộc diện bề dưới nên anh phải làm tất cả mọi việc như quét lau sàn, lấy nước, giặt giũ ở giếng cạn phía sau, lấy áo quần phơi vào buồng, v.v... Nói chung, anh ta phải làm tất cả mọi việc trong buồng và lúc nào cũng để mắt nhìn Bình Thanh coi có điều gì anh làm cho Bình Thanh bực mình hoặc trái ý không. Mỗi lần Bình Thanh nói gì với anh, tôi thấy Trọng Loe mặt mày tái mét và run rẩy. Tôi không ngờ anh ta sợ Bình Thanh đến độ như vậy.

Tôi cũng không ngờ Bình Thanh lại quá khắt khe đối với Trọng Loe nên có lần tôi đã vô tình gây ra một việc làm tôi hối hận. Vì Trọng Loe biết Bình Thanh rất quý và tôn trọng tôi nên anh ta cũng biết phải đối xử với tôi như thế nào rồi. Nhưng một ngày kia, trong giờ mở cửa lấy thức ăn, tôi ra bể cạn phía sau giặt áo. Nửa chừng, Bình Thanh gọi tôi vì có một đàn em dưới làng leo qua tường vào khu kỷ luật và muốn chào tôi. Tôi nói với Trọng Loe đang xách nước kế bên:
- Trọng Loe, giặt giúp anh cái áo rồi phơi trên tường rào nhá!

Tôi không nghe anh ta đáp lại nên nghĩ là anh đã nhận lời nên để áo đó và chạy ra phía trước. Việc Trọng Loe có vẻ lầm lì và không trả lời tôi làm tôi suy nghĩ. Hay là tôi đã làm gì cho anh ta buồn chăng? Nhưng thấy chẳng có chuyện gì, vì tôi đối với anh ta rất tốt. Chợt tôi nhớ lại trường hợp Sửu Què. Lúc đó, vì Bình Thanh coi trọng Khuân làm cho Sửu Què tức bực mới sanh chuyện. Bây giờ, có thể Trọng Loe bực tức vì Bình Thanh quý mến tôi chăng? Tôi cứ suy nghĩ điều đó cho tới lúc vào buồng. Trong lúc Bình Thanh đang chia thức ăn, tôi nhìn ra không thấy áo phơi đâu cả, mới hỏi Trọng:
- Trọng, áo anh nhờ giặt, em phơi đâu không thấy?

Trọng Loe trả lời với vẻ mặt đanh lại, tôi chẳng hiểu anh ta bực chuyện gì:
- Anh không thấy em bận, lấy nước còn không kịp sao?

Câu trả lời móc họng quá bất ngờ của Trọng Loe làm tôi nổi giận. Vì trên nguyên tắc, trong buồng này anh ta phải làm mọi việc cho tất cả mọi người, và bù lại Bình Thanh cho anh ta hai phần ăn mỗi bữa. Nhưng tôi không bao giờ cậy thế anh em hoặc dùng miếng ăn để sai khiến anh ta. Tôi đã hiểu và đau khổ quá nhiều với tâm trạng của một người tù thất thế. Tôi thương cho thân phận của Trọng Loe, một vợ 2 con, chẳng qua vào tù vì yếu đuối mà phải chịu lép vế dưới luật tôn ti trật tự của giới lưu manh. Những việc có thể làm tôi đều làm và không sai khiến Trọng như các anh khác trong buồng. Tôi nói với Trọng:
- Trọng, sao em trả lời với anh như thế? Anh biết em bận lấy nước chớ. Nhưng nếu em không giặt áo giúp anh được em phải nói cho anh biết. Đàng này, em không nói gì cả, anh tưởng em đã nhận lời. Nếu em bận, anh sẽ giặt lúc khác có sao đâu!

Nãy giờ Bình Thanh đang chia thức ăn, vụt bật dậy như một cái lò xo, bước tới chụp cái gối bó bằng chiếu, rút con dao dấu trong đó ra. Con dao này chỉ bé bằng đầu ngón tay, làm bằng thanh sắt dài đập dẹp một đầu. Cầm dao trong tay, Bình Thanh quát:
- ĐM mầy Trọng Loe, mầy quá đáng, mầy quá đáng! ĐM mầy, anh tao mà mầy còn coi không ra gì thì tao mầy coi ra gì? Cái loại chó như mầy không đáng sống trên đời.

Vừa nói, Bình Thanh vừa chụp ngực áo của Trong Loe quật nằm ngửa xuống bệ nằm, tay phải giơ cao con dao định đâm xuống. Thấy vậy, cả ba người chúng tôi vôi lao tới chụp lấy cánh tay Bình Thanh, nhưng anh ta quá khỏe, vung một phát hai anh kia văng ra. Tôi vẫn nắm lấy cánh tay Bình Thanh, cố gỡ con dao ra, miệng quát thật to:
- Bình Thanh! Bình Thanh! Tha cho nó. Em nghe anh, em làm như thế anh mang tiếng ác!

Mặc dù trong cơn điên tiết nhưng nghe tôi nói thế, Bình Thanh chịu để cho tôi gỡ lấy con dao ra khỏi tay và dùng hai bàn tay chụp cổ Trọng Loe dựng đứng lên. Lần đầu tiên tôi thấy được cơn thịnh nộ của Bình Thanh. Đôi mắt Bình Thanh trở nên hoang dại như đôi mắt hổ. Hàm răng rít lại, cằm dưới đưa ra xa. Các bắp thịt trên người được vận dụng nổi lên cuồn cuộn. Hai tay nắm cổ Trọng Loe, lúc này như một hình nộm, nhấc lên cao và quát vào mặt:
- ĐM mầy, nếu không vì anh tao, tao đã giết chết đồ chó đẻ mầy rồi! Mầy hiểu chưa? Mầy hiểu chưa?

Vừa hỏi, Bình Thanh vừa lắc thân thể Trọng Loe lúc này như một cây sậy. Sau đó, Bình Thanh xô anh ta ra xa, rồi chụp tay kéo thật mạnh lại trong lúc co cùi chỏ lên kê đúng giữa ngực. Tôi nghe một tiếng “ự” và thấy máu tươi từ miệng Trọng Loe trào ra, chảy lênh láng dưới sàn. Tiện tay, Bình Thanh xô Trọng Loe nằm sấp lên vũng máu. Một cảnh tượng thật kinh hoàng diễn ra trước mắt tôi. Cái cảnh lưu manh trị nhau trong tù!

Tôi đỡ Trọng Loe nằm lên bệ, lau chùi máu trên người và xức dầu cao cho anh ta. Qua cơn kinh hoàng, Trọng Loe gượng mở mắt ra, nhìn tôi và nói nhỏ:
- Em cám ơn anh!

Tôi ngồi nhìn người bạn tù, cảm thấy hối hận và xót xa trong lòng, đáp lại:
- Trọng, anh xin lỗi em, em dừng oán trách!

Trọng Loe lắc đầu nhè nhẹ và nhắm nghiền đôi mắt.

Đêm đó, tôi trách Bình Thanh quá nặng tay với Trọng Loe khi tội nó không đáng bị như thế, và việc nó bị đòn nặng làm tôi cảm thấy buồn và hối hận. Bình Thanh trả lời:
- Anh là một nhà tu nên lúc nào cũng nói tới chuyện thương người. Bọn lưu manh chúng em nó khác. Không thế, không trị được chúng nó đâu anh ạ! Anh biết không, chưa bao giờ em rút “gươm ra khỏi vỏ” mà xỏ trở vào nếu chưa dính máu. Chỉ trừ lần này vì anh mà em lỗi quy luật!

Sau đó, Bình Thanh nhắc lại chuyện của Bùi Đình Thi mà tôi đã kể chi tiết cho Bình Thanh nghe. Cũng trong đêm đó, Bình Thanh nói:
- Anh thấy đó, thằng Trọng Loe nó chỉ hỗn với anh thôi, em đã trừng trị nó như thế nào. Còn thằng Bùi Đình Thi, ĐM nó, cái số nó còn lớn! Nếu lúc này nó còn ở tù, trại này hay bất cứ trại nào khác, thì thật là cái phúc cho em! Nhưng em không giết loại người như nó, giết bẩn tay lắm. Em chỉ muốn xin nó cặp pha và đôi đũa. Còn cất nó là mình vô tình làm phúc cho nó!

Tôi trả lời:
- Chuyện của Bùi Đình Thi đã ba năm qua. Lúc mới bị đòn, anh cũng điên tiết lắm nhưng bây giờ anh đã nguôi ngoai rồi. Anh đã tha thứ cho nó, vì tha thứ làm tâm hồn anh được thảnh thơi...

Bình Thanh cướp lời tôi:
- Sao anh lại nói thế? Tội nó làm sao tha thứ được anh?

Tôi đáp:
- Anh là một Linh mục. Anh là người rao giảng tình thương và sự tha thứ mà Chúa Giêsu đã dạy và làm gương!

Bình Thanh nghe tôi nói thế cười bên tai:
- Anh à! Ông Chúa của anh buồn cười thật. Chắc chắn là ông ta không thể là Chúa của em rồi!

Tôi nghiêm giọng:
- Bình Thanh! Anh không muốn em diễu cợt trong vấn đề này. Tôn giáo là vấn đề lớn của con người trên mặt đất. Anh muốn em phải có thái độ tôn kính khi nói đến tôn giáo. Bất kỳ một tôn giáo nào mình cũng phải tôn trọng cả. Em nói là em tôn trọng anh, tại sao em lại xúc phạm tới Thiên Chúa là Đấng anh tôn thờ! Em làm anh buồn.

Bình Thanh nghe tôi nói thế, quay sang ôm vai tôi nói: - Anh Út! Em nói đùa thôi, em nói đùa cho vui. Em không có ý xúc phạm Đấng Bề Trên đâu. Có điều anh nói tới việc tha thứ cho thằng Bùi Đình Thi làm em khó hiểu quá. Khi nghe kể về hành động ác nhân của nó trong trại này và việc nó hành hạ anh, nghe qua em đã nổi điên lên rồi. Hôm anh vào buồng, khi em ôm thân thể chỉ còn bộ xương của anh làm em nhớ lại cảnh thằng Thi nó quần thảo anh làm máu em sôi lên. Bây giờ, anh lại nói chuyện tha thứ cho tên sát nhân đó. Thực em khó hiểu quá. Em là một thằng lưu manh, em không phải là một cha đạo như anh!

- Nhưng em là em của anh.
- Anh nói đúng, vì là em của anh nên em phải làm nhiệm vụ của em.

Tôi hỏi lại:
- Nhiệm vụ gì?
- Nhiệm vụ báo thù cho anh.

Tôi thấy Bình Thanh cứ loanh quanh vấn đề này nên nói: - Anh đã nói là anh tha thứ rồi thì còn thù gì nữa mà báo. Vả lại, báo thù thì chuốc oán thôi, ích lợi gì?

Bình Thanh cãi lại:
- Anh tha là chuyện của anh, còn ân oán giang hồ là luật của cuộc đời, của bọn lưu manh chúng em.

- Thế em không nghĩ là tình thương và sự tha thứ mang lại hạnh phúc cho con người, còn ân oán giang hồ chỉ tạo thêm hận thù, ghen ghét làm khổ con người sao?

Bình Thanh mỉa mai:
- Anh Út! Anh đang giảng đạo cho em đấy à?
- Đúng, anh đang giảng đạo cho em đây. Nếu anh không giảng cho em thì còn giảng cho ai, vì anh thương em quá là thương!

Bình Thanh suy tư một lúc rồi nói:
- Anh Út ơi! Lúc này anh chưa giảng đạo cho em được đâu. Em sanh ra để làm thằng lưu manh chứ đâu phải để làm con Chúa. Làm con Chúa mà bắt em tha thứ thì em không thể nào làm con Chúa được.

Tôi nói rất nghiêm túc:
- Bình Thanh à! Có rất nhiều người lúc đầu cũng nói như em, nhưng có một ngày rồi ơn Chúa đến để cải đổi tâm hồn họ và họ đã thành con Chúa.

Bình Thanh nói nghiêm trang:
- Em mong ngày đó đến với em.

Tôi nắm lấy bàn tay đứa em tướng cướp nói nhỏ:
- Anh cầu nguyện cho em.

Bình Thanh để tay trong tay tôi rất lâu, rồi nở nụ cười thật hồn nhiên, nói:
- Em không ngờ đời em lại có người anh là một Linh mục!

Tôi đáp ngay:
- Anh cũng không ngờ đời anh lại có người em là một tướng cướp. Tướng cướp Bình Thanh.

Hai anh em yên lặng một lúc, Bình Thanh thở dài nói:
- Đời, c'est la vie!

Tôi cười:
- Em học ở đâu được câu tiếng Pháp đó?

Bình Thanh trả lời:
- Thế anh không thấy câu đó xâm trên lưng em à?

Tôi nhớ lại trên lưng của Bình Thanh có xâm hình Phật Bà Quan âm rất to, bên dưới là lư hương tỏa khói, kế đó là câu 'Đời, c'est la vie!' và bên dưới cùng là câu: “Khi tôi chết ai là người xây nấm mộ? Cỗ quan tài ai khóc tiễn đưa tôi?”

Trọng Loe nằm liệt mấy ngày rồi trỗi dậy lo các việc thường ngày. Trong thời gian anh nằm thì Bình Thanh quan tâm cho anh ta thức ăn, mà anh em dưới làng đã gửi lên.

Kiếp sống giang hồ

Những ngày tháng cùm chung này là dịp để anh em tâm tình với nhau về cuộc đời mình. Bình Thanh tên thật là Đỗ Thanh Bình, năm đó 33 tuổi, quê ở Hưng Yên, gia đình khá giả. Bố là một Thiếu tá công an, mẹ là giáo viên. Lớn lên, Bình học rất thông minh, văn hay chữ tốt và rất khéo tay. Lúc trưởng thành, Bình rất khỏe mạnh, thân hình rắn chắc.

Về tâm tính, ngay từ bé đã bày tỏ chí khí hiên ngang, đôi lúc tới chỗ bạo động. Trong một lần, lúc chưa được 20 tuổi, Bình đã can thiệp cho một người bị công an chặn xe làm tiền trái phép. Cậu đánh anh công an máu me lênh láng nên bị bắt nhốt vào đồn. Bố nghe tin, tới xin lãnh về. Nhưng bố vừa tới nơi đã thấy mọi người rầm rộ đổ xô đi tìm, vì anh lợi dụng lúc người lính gác dẫn đi đại tiện bên ngoài, đã đánh gục anh lính gác và chuồn khỏi nhà giam của đồn công an. Từ đó, Bình không trở về nhà nữa, phiêu bạt khắp nơi, kết nạp băng đảng. Với tính khí bạo động và chống lại sự đè nén bất công của xã hội, triệt tiêu giới cầm quyền áp bức, bênh vực người cô thế, cộng với thân hình vạm vỡ và diện mạo khôi ngô, Bình được nhiều anh em nể phục và sớm trở thành khuôn mặt có tên tuổi trong giới giang hồ miền Bắc.

Vốn khéo tay và mưu lược, Bình tổ chức băng đảng, khi giả dạng bộ đội, khi giả dạng công an với tất cả mọi thứ giấy tờ, chứng minh thư còn “thật hơn là giấy thật!” Nhiều anh bộ đội, cả sĩ quan nữa, “nhảy dù” đi phép, đã phải chết cay chết đắng vì bị “Thượng úy Bình Thanh” xét giấy tờ và tóm được giải vào đơn vị nhốt. Có năn nỉ kiểu gì “Thượng úy Bình Thanh” cũng không tha!

Bình Thanh đứng đầu băng đảng cướp khi mới 26 tuổi và chuyên “mượn” các kho hàng, xe vận tải của quân đội, các hợp tác xã, kho hàng của xí nghiệp quốc doanh. Khi nào kẹt lắm hoặc vào mùa “giáp hạt”, mới phải hoạt động trên “bè dài”. Cũng trong thời gian đóng giả làm trung úy chỉ huy một tốp lính lái xe vận tải mà Bình Thanh gặp và yêu một cô gái trong đoàn văn công tên là Hường. Bình Thanh kể lại tôi nghe câu chuyện tình bắt đầu rất nhẹ nhàng nhưng rồi càng lúc càng sâu, và cũng vì lụy với giai nhân mà cuộc đời của một tướng cướp lẫy lừng phải chịu đầy gian truân.

Câu chuyện bắt đầu vào buổi sáng kia, trong một lần “Trung úy bộ đội” Bình Thanh và một anh bộ đội đi qua phố ở Hà Tĩnh và vào quán gọi thức ăn. Bàn bên kia có mấy cô gái đẹp đang uống nước, trong đó có một cô chừng 20 tuổi, xinh nhất đám. Bên này, Bình Thanh gọi với sang tán tỉnh và làm quen. Trong khi đó, có năm anh bộ đội khác bước vào, kéo ghế ngồi bên cạnh bàn mấy cô gái. Có lẽ mấy anh bộ đội này người địa phương nên quen biết mấy cô. Hơn nữa, có lẽ ỷ vào số đông nên chặn ngang giữa đường và quay sang nói chuyện với các người đẹp, không coi ông “Trung úy” mặt còn non choẹt và anh bộ đội lạ mặt kia ra gì. Tướng cướp Bình Thanh và tên lưu manh đàn em, không nói một tiếng nào, bước qua túm cổ mấy anh bộ đội đánh luôn.

Vì bị tấn công bất ngờ, không kịp chống đỡ, nên ngay trong giây phút đầu, hai trong năm anh bộ đội đã bị Bình Thanh đánh gục xuống bàn. Còn lại ba chọi với hai. Cuộc ẩu đả bất ngờ làm bàn ghế trong quán vỡ tan tành. Mấy cô gái vội rút vào trong đứng nhìn ra. Chỉ một lúc sau, ba anh bộ đội còn lại cũng nằm gục trong quán dưới những cú đòn ác hiểm của một tướng cướp mà lúc đó ai cũng tưởng là Trung úy bộ đội này. Bình Thanh bị tét môi, máu chảy khá nhiều, đưa cánh tay lên quệt máu. Xong xuôi, anh móc túi lấy một số tiền lớn đặt lên bàn, có ý thường sự hư hại bàn ghế trong quán, cúi nhặt nón cối đang nằm lăn lóc dưới sàn, bước tới nghiêng mình chào người đẹp đang giương đôi mắt bồ câu ra nhìn, rồi đội nón ra đi, trong lúc đó người đệ tử đứng ngoài cửa quán canh chừng. Chợt người đẹp có đôi mắt chim câu lên tiếng:
- Ông sao ngược!

Bình Thanh nghe nói quay lại, không hiểu cô gái muốn nói gì. Lúc đó cô gái cười thật nhí nhảnh và chỉ vào cái mũ cối trên đầu Bình Thanh nói:
- Ông sao ngược! Anh đội mũ ngược rồi. Ông sao quay về phía sau kìa! Ông sao ngược kìa!

Thì ra trong lúc vội vã, hoặc là bị người đẹp “hớp hồn” khiến Bình Thanh không còn để ý gì chung quanh nên đội mũ lộn ngược ra sau mà không hay biết! Ba tiếng “Ông sao ngược” của người đẹp có đôi mắt chim câu trong một quán ăn buổi sáng hôm đó, đã trở thành những nốt nhạc đầu tiên trong bản tình ca vô cùng thắm thiết nhưng đầy nước mắt và đau thương giữa một giai nhân xứ Hà Tĩnh và một tướng cướp hào hoa.

Giai nhân và tướng cướp

Cuộc tình của hai người càng ngày càng thắm thiết mặn nồng. Bình Thanh nhiều lần đưa Hường ra thăm Hà Nội, nơi mà Hường chưa có dịp ra. Những lần đi xem phim, xem kịch, xem xiếc với người tình sĩ quan đẹp trai và hào hoa đã làm Hường vô cùng hãnh diện. Các loại quà cáp, áo quần, nữ trang mà Bình Thanh sắm sửa cho đã làm cho Hường vốn đã đẹp lại càng đẹp hơn.

Từ đó, cuộc đời người con gái trong ban múa của đoàn Văn Công xứ Hà Tĩnh chỉ toàn là màu hồng. Nhiều lần, bố mẹ nàng có đề cập tới việc tổ chức đám cưới cho Hường và Bình, nhưng Bình cứ tìm cách nói khéo là chờ thêm một thời gian. Thực ra, Hường chưa thấy cần thiết phải có đám cưới, một phần vì nghề nghiệp của nàng, phần khác, cuộc sống mặn nồng của một người tình đối với nàng đã quá hạnh phúc. Việc tổ chức đám cưới tất nhiên sẽ tới, nhưng còn phải một thời gian.

Thương cho Hường sống với người yêu gần hai năm trời mà không hề biết Bình Thanh là người sống ngoài vòng pháp luật, cứ tưởng là một sĩ quan trong ngành vận chuyển. Lúc nào cũng thấy có lính tráng đi theo, súng ống đầy người và lái những xe tải chở đầy hàng hóa, nhưng thường là chở về đêm.

Cho tới một đêm nọ, trăng sáng thật tỏ, sau khi lái xe về nhà Hường xong, Bình và cả bọn ra sông tắm trong lúc Hường làm cơm. Bữa cơm đã sẵn sàng nhưng chưa thấy Bình trở lên nên Hường ra bờ sông gọi Bình và lính tráng về ăn cơm. Bình đang tắm, nghe Hường gọi, cứ thế lội lên bờ, trong khi chỉ bận chiếc quần đùi và áo thun trắng mà chẳng để ý gì. Vì áo thun trắng ướt, dính sát vào người nên dưới ánh trăng, người Bình để lộ ra toàn bộ hình xâm trổ trên thân thể, cả trước ngực lẫn sau lưng đều xâm kín hết. Đây là sự vô ý rất tai hại vì trong suốt thời gian qua Bình đã chủ ý che giấu việc này bằng mọi cách và không bao giờ để cho Hường thấy lúc anh đang cởi trần.

Hường vô cùng kinh ngạc với sự phát hiện bất ngờ này, khi nhìn thấy thân thể Bình dưới ánh trăng sáng tỏ. Chừng đó, Hường mới té ngửa ra. Gạn hỏi mãi, cuối cùng, Bình đành phải thú nhận tất cả sự thật. Bình là một tướng cướp giả dạng sĩ quan ngành lái xe, vì bộ đội đâu được quyền xâm trổ như vậy. Hường khóc hết nước mắt về chuyện này! Bình Thanh đã quỳ xuống trước mặt Hường, xin Hường tha thứ:
- Vì quá yêu em, anh không dám nói sự thật. Anh sợ mất em!

Hường đau khổ vô cùng khi biết Bình Thanh là con người sống ngoài vòng pháp luật, nhưng vì tình yêu đã quá mặn nồng nên từ đó, Hường đành phải chấp nhận là người tình của tướng cướp Bình Thanh. Một chuyện mà chỉ có mình nàng biết.

Hai năm sau, lúc Bình Thanh 28 tuổi, bị “bể” trong vụ đánh cướp cửa hàng lương thực tỉnh Hải Dương, anh bị bắt và bị kêu án 10 năm, giam ở một trại trong tỉnh Quảng Ninh. Hường từ miền Trung lặn lội ra thăm Bình trong tù ở tận vùng cực Bắc. Vào tù chưa đầy một năm, Bình Thanh vượt ngục. Công an theo dõi và biết anh có người yêu ở Hà Tĩnh, nên cử người kiên nhẫn theo dõi Hường và cuối cùng đã vây bắt được Bình Thanh ở Hà Tĩnh.

Lúc bị bắt, anh chống cự, bị người công an đánh nên anh tức khí, giật súng tháo chạy, công an đuổi theo nhắm bắn, anh quay súng lại bắn chết công an, nhưng chạy không thoát vì bị dân quân bắt được. Ra tòa, Bình Thanh bị kêu án mới 15 năm, hủy án cũ. Từ đó tới nay, 6 năm qua, Bình Thanh đã vượt ngục tất cả 5 lần. Lần nào cũng thành công, nhưng rồi bị bắt lại vì tay anh hùng hảo hán này là người rất nặng nghĩa tình và lụy sắc đẹp của giai nhân! Khi chuyển về Thanh Cẩm, Bình Thanh còn mang bản án 15 năm vì mỗi lần vượt ngục lại bị tăng án. Nhưng Bình Thanh nói với tôi: “Án thì án thế thôi, có nhà tù nào giam hãm được em đâu anh”!

Nằm chung một thớt, cùng chung một cùm và nghe Bình Thanh kể lại chuyện cuộc đời mình và Hường, tôi quá thương cho người con gái. Mặc dù chưa biết mặt, nhưng lúc này, Hường đã là em dâu của tôi. Định mệnh đã đưa cô vào chiếc quán ăn năm nào và cũng định mệnh đã khiến cô phát ra ba tiếng “Ông sao ngược” trong lần đó để rồi đời người con gái đẹp phải dở dang vì yêu say đắm một tướng cướp. Và nếu như sau nầy, Hường biết được đoạn cuối cuộc đời của Bình Thanh như tôi đã biết thì nàng sẽ đau khổ tới đâu?

Anh Hùng Náo

Khi tôi từ chối vào buồng 5 với mấy anh Trung Quốc để vào buồng 2 với Bình Thanh thì Phi Tàu, một anh Trung Quốc to lớn như đô vật, vào buồng đó thay tôi, và anh này cũng không phải là tay vừa. Có điều là anh ta thâm trầm và mưu lược, không quá lưu manh lộ liễu như Lý Đức Nghĩa. Có thêm Phi Tàu vào, số phận của anh tù ốm yếu Lưu Tùng càng bi thảm hơn. Tôi có nói tình trạng này với trật tự Bảy Chà, không biết anh Bảy có báo cáo lại cho cán bộ không vì vẫn chưa thấy đổi buồng cho Lưu Tùng đi nơi khác.

Càng ngày tôi càng thấy Lưu Tùng xiêu vẹo hơn và tôi biết là đã tới tình trạng báo động. Mấy anh Tàu kia kèm Lưu Tùng rất kỹ, sợ anh ta mách với cán bộ. Một bữa nọ, trong giờ mở cửa cho ăn, thấy Lưu Tùng ngồi phơi nắng một mình ở góc sân và chung quanh không có ai, vì mấy anh Tàu kia người thì lấy nước, người thì giặt giũ đàng xa, tôi bước tới chỗ Lưu Tùng ngồi và hỏi bằng tiếng Phổ Thông:
- Lưu Tùng, có bị chấn cơm không?

Anh ta nói nhanh:
- Lỳ cớ, chiêu min! (Anh Lễ ơi, cứu mạng tôi!)

Tôi hỏi nhanh là cướp thế nào, anh cho biết hai ngày ăn được một bữa, còn 3 bữa kia bị cướp. Tôi nói lại việc này với anh Bảy Chà, anh nói đã báo cáo cho cán bộ rồi nhưng chưa được giải quyết. Thật ra thì cán bộ chẳng quan tâm gì tới việc những người tù với nhau.

Tôi về buồng nói với Bình Thanh và mấy anh em khác là nếu cán bộ không can thiệp thì mình phải ra tay cứu Lưu Tùng, nếu chờ cán bộ, chắc anh ta sẽ chết trước khi được giải quyết. Trong gần ba năm qua, tôi đã biết rõ về sự dã man, độc ác của ba anh tù Trung Quốc kia. Hơn nữa, hôm nay, chính tai tôi còn được nghe rõ là hai ngày Lưu Tùng mới được một bữa ăn, trong khi người khác ăn mỗi ngày hai bữa còn thấy đói.

Chúng tôi nói trước với anh trật tự Bảy là chiều hôm đó, để tránh rắc rối cho anh, chỉ cần anh mở cửa các buồng xong, anh lánh mặt đi nơi khác chừng 15 phút. Trước đó, vào buổi trưa, tôi thấy Bình Thanh và 3 anh nữa, Bình Bưởi, Tiến Ngựa, Thịnh Capitaine ăn mặc chỉnh tề. Riêng Bình Thanh mang giày vải vào và chuẩn bị những chiếc vớ cẩn thận để làm “chưởng”. Trước giờ cho ăn chiều hôm đó, khi anh Bảy vừa mở cửa buồng, 5 phía sau, thì nhóm 4 anh nầy chạy bay về phía sau như toán lính đột kích, xông vô buồng 5. Một anh chận cửa, ba anh nhào vô đánh Phi Tàu, Lý Đức Nghĩa và Chu Vạn Hồi tơi bời hoa lá. Bình Thanh dùng “chưởng” quật cho Phi và Nghĩa nhừ cả người, máu me văng đầy tường. Chừng 15 phút sau, trật tự Bảy “biết được” chạy tới thì Phi Tàu và Nghĩa nằm như thây ma bất động! Chu Vạn Hồi bị đánh ít hơn còn gượng đứng dậy đi được. Ngay chiều hôm đó, buồng 5 được giải tán mỗi người một nơi, nhờ đó, Lưu Tùng kéo dài sự sống được vài năm nữa.

Bình Thanh và tôi ở chung buồng khá lâu cho tới đầu năm 1982. Lúc gần Tết, chúng tôi chuyển qua buồng 1 ở góc nhà. Buồng này chỉ có một cánh cửa thay vì hai cánh như các buồng khác. Trong buồng, ngoài tôi và Bình Thanh ra còn có Thịnh Capitaine và Minh Lùn.

Khi qua buồng 1, chúng tôi đã nghiên cứu hết mọi chi tiết và sẽ tổ chức vượt ngục trong dịp trước Tết. Nếu ra ngoài thành công, tôi sẽ ở miền Bắc với Bình Thanh một thời gian rồi xuôi Nam trước khi tìm đường ra nước ngoài. Nếu lần vượt ngục trước thất bại vì toàn là người miền Nam, lần này với Bình Thanh, người đã vượt ngục thành công 5 lần tại các trại miền Bắc, tôi cảm thấy rất yên tâm. Vả lại, Bình Thanh rất khỏe và rành rẽ đường đi nước bước ở miền Bắc.

Trong buồng, chúng tôi đã chuẩn bị hết mọi thứ cần thiết, nhất là giấy đi đường có đóng dấu ký tên hẳn hoi, chứng nhận là người của hợp tác xã đi lấy lá dong để gói bánh chưng cho hợp tác xã. Tôi phải khâm phục tài khéo của Bình Thanh trong việc tạo giấy tờ và con dấu giả. Trong buồng thì Bình Thanh đã làm một cái móng cùm giả, còn giống hơn móng cùm thật. Bình Thanh luôn miệng nói với tôi:
- Ở những trại giam khác, kiên cố bằng mấy ở đây, em còn ra đi dễ dàng. Trại này chỉ là đồ chơi!

Bình Thanh còn nói với tôi:
- Ra khỏi đây rỗi đi với em, anh không phải bận tâm một điều gì cả.

Tôi đang vui mừng về viễn ảnh sẽ vượt ngục ra ngoài và sống phiêu bạt ở miền Bắc với Bình Thanh một thời gian, thì một buổi sáng kia, đúng 10 hôm trước khi chúng tôi hành động, tôi được gọi ra khỏi nhà kỷ luật trước sự bàng hoàng của hai anh em tôi.

Phút chia tay

Tôi được tha ra khỏi nhà kỷ luật sau gần ba năm cùm chân, từ tháng 5 năm 1979 tới tháng 2 năm 1982. Tôi từ giã Bình Thanh ra đi mà trong lòng buồn vời vợi. Cán bộ đưa tôi qua buồng 4 khu Kiên Giam “Nhà Bằng” sống với một số Linh mục. Tôi còn nhớ ở buồng 4 đó, có cha Cao Đức Thuận, Lê Đức Triệu, Khổng Năng Bao. Khi tôi rời buồng kỷ luật ra đi, Bình Thanh nhớ tôi nên lúc nào mở cửa cho ăn là Bình Thanh cũng nhảy tót và leo qua hàng rào vào buồng kiên giam thăm tôi. Trật tự Bảy chỉ đứng nhìn mà không cản vì anh biết là có cản cũng không được, nên Bảy đành phải đứng canh cán bộ cho Bình Thanh nhảy rào qua với tôi.

Các Linh mục khác trong buồng 4 khu kiên giam lúc bấy giờ, rất ngạc nhiên về tình cảm đặc biệt giữa tôi và Bình Thanh. Khi qua đây, tôi mới biết là trong dịp trước Tết năm đó, cha Nguyễn Huy Chương, một Linh mục lớn tuổi nhất mà chúng tôi gọi là Bố Chương, có cô cháu từ Sài Gòn ra thăm cho khá nhiều quà. Vì rất thương tôi, Bố Chương biếu cho cán bộ một ít quà và nói:“Báo cáo cán bộ! Tôi nghiệp anh Lễ bị cùm chân 3 năm rồi. Nhân dịp Tết xin cán bộ tha cùm cho anh Lễ được qua sống với anh em chúng tôi!”.

Cũng vì lời xin đó mà cán bộ tha cho tôi. Bố Chương cứ nghĩ là đã làm một việc rất tốt giúp tôi. Thực sự, đó là việc vô cùng tốt đẹp nếu lúc đó chúng tôi không có kế hoạch vượt ngục từ khu kỷ luật, và ngày thực hiện kế hoạch đã gần kề. Tôi tiếc vô cùng, nhưng cho đây cũng là ý Chúa.

Gạt lệ ra đi

Mười ngày sau, trong giờ cho ăn chiều, Bình Thanh leo rào qua ôm hôn tôi tha thiết và nói:“Đêm nay em đi, anh cầu nguyện cho em. Em đến chào tạm biệt, và có thể là vĩnh biệt anh!” Nói xong, anh em tôi ôm nhau khóc như mưa. Các người khác trong buồng ngồi nhìn ngạc nhiên không biết nguyên nhân tại sao. Nhưng làm sao tôi nói được lý do.

Trước đó, tôi đã cẩn thận dặn Bình Thanh, chuyến này về đừng bao giờ tìm cách liên lạc với Hường, kẻo lại bị sa lưới như những lần trước. Hãy vào Nam gặp chị Hai của tôi trước và các việc liên hệ với Hường về sau này chị Hai sẽ cho ý kiến và thu xếp giúp cho. Tôi cũng giao cho Bình Thanh giữ một tấm hình gia đình của chị dâu và các cháu mà chị Hai mang ra trong lần thăm nuôi vừa qua. Đây là bằng chứng để nếu Bình Thanh có tới thăm, chị sẽ biết Bình Thanh là ai, vì mặc dù tôi đã nói với chị về Bình Thanh nhưng chị chưa biết mặt người em này bao giờ.

Tôi cũng cẩn thận dặn mật mã để Bình Thanh viết thư vào trại cho tôi, nhưng chỉ viết khi vào miền Nam, vì viết từ miền Bắc rất dễ bị nghi ngờ. Tôi dặn là trong vòng ba tháng mà chưa vào Nam được thì phải viết thư vào cho tôi biết. Nếu sau ba tháng mà không có tin gì từ miền Nam hoặc miền Bắc thì coi như Bình Thanh đã chết. Tôi cũng đã đặn dò tất cả những gì tôi có thể nghĩ ra để giúp Bình Thanh về cuộc sống trong Sài Gòn mà Bình Thanh chưa bao giờ vào. Cuộc chia tay này cảm động nói không nên lời.

Đêm đó, tôi nằm trong buồng 4 khu kiên giam, không chợp mắt một chút nào. Có lúc tôi ngồi đọc kinh lần chuỗi, kêu xin Chúa và Đức Mẹ phù hộ cho Bình Thanh. Tới nửa đêm vẫn chưa nghe tiếng súng báo động, tôi rất mừng vì biết giờ nào Bình Thanh sẽ ra đi. Thời gian trôi qua đã lâu nhưng vẫn chưa nghe tiếng súng. Tới gần sáng, vẫn chưa nghe. Tới giờ điểm danh cũng chưa nghe tiếng súng. Tôi thầm thì tạ ơn Chúa và biết là Bình Thanh đã thoát. Tới giờ điểm danh sáng, tôi ngồi trong buồng nhìn ra, thấy trật tự Bảy hớt hải chạy và báo cáo cán bộ có tù vượt ngục. Có tiếng cán bộ chạy lên rần rật, sau đó là 3 tiếng súng báo động. Bấy giờ trời đã sáng tỏ. Tôi nói ra thành tiếng “Tạ ơn Chúa!”

Chiều tối hôm đó, tôi thất kinh khi nghe tiếng ồn ào bên khu kỷ luật, tiếng đánh đập, tiếng la hét. Sau đó, anh Bảy cho biết là Minh Lùn, trong nhóm vượt ngục với Bình Thanh, bị bắt lại, đưa về trại và bị đánh đập tàn nhẩn và chết trong khu kỷ luật. Còn Bình Thanh và Thịnh chưa nghe tin tức, chắc là thoát rồi!

Quãng hơn tháng sau, tôi được thư chị Hai tôi. Sau khi kể chuyện nhà cửa, chị viết: “Chị quên nói với em là tuần trước cháu Hường trên đường đi công tác ghé qua nhà thăm chị. Thấy ba người lạ mang súng vô nhà chị sợ! Chừng nhận ra Hường chị mừng lắm! Bây giờ nó là trung úy rồi. Nó bảo lâu quá mới trở lại nên không còn nhớ đường. Phải hỏi người ta chỉ vào nhà mình. Ba người ở lại ăn cơm rồi đi. Hường nói tuần sau nó sẽ lên Thành Phố tìm thăm Thu. Nghe nói bây giờ Thu đã dời nhà về Hố Nai.” Đọc thư chị, tôi mừng suýt nữa la lên. Tôi mừng vô hạn, như vậy là Bình Thanh đã thoát vô Nam, đã gặp chị tôi và sẽ lên Hố Nai tìm người quen mà chỉ có chúng tôi mới biết.

Chừng vài tháng sau, tôi nhận một thư của người cháu đi bộ đội tên Bùi Thanh Hường ở Sài Gòn gửi ra thăm. Hường có nhắc lại lần xuống thăm chị tôi ở Vĩnh Long. Hường kể lúc đầu chị Hai không nhận ra, chị tôi sợ mất hồn! Nhất là khi thấy súng ống, đạn dược. Hường cho biết sau đó lên tìm người bạn ở Hố Nai và có cho ít quà lưu niệm. Hường nói tiếp trong thư là: “Có lẽ cháu sẽ qua Campuchia một thời gian, và sẽ viết cho chú khi thuận tiện”. Tôi đọc thư mừng lắm, nhưng chữ viết không phải của Hường, vì tôi còn lạ gì nét chữ đẹp như rồng bay phương múa của Bình Thanh.

Đó là thư đầu tiên và cũng là thư cuối cùng, vì từ đó, tôi không còn nghe thêm gì về Bình Thanh nữa. Điều này làm tôi rất hoang mang. Nếu không liên lạc với tôi, ít ra Bình Thanh cũng sẽ liên lạc với chị tôi, nhưng tuyệt nhiên không hề có tin tức gì. Sáu năm sau, tức là năm 1988, khi rời trại Thanh Cẩm về lại trại Nam Hà, tôi vẫn không nghe thêm một chút gì về Bình Thanh, một tướng cướp ngang trời dọc biển trở thành người em kết nghĩa của tôi, và tôi vô cùng thương mến.

Trại tù Thanh Cẩm nằm sâu trong vùng rừng núi âm u của tỉnh Thanh Hóa, mà tôi đã sống ở đó 10 năm, đã dệt thành phần lớn kỷ niệm đời tù của tôi, trong đó, tướng cướp Bình Thanh là một dây tơ thật đẹp.


44
Phần 3: Tự Do và Hy Vọng
Ngày Trở Về (1)

T


ính tới tháng Giêng năm 1988, tôi đã bước vào năm tù thứ 12, trong đó có 11 năm lê lết qua các trại tù khắc nghiệt miền Bắc.

Cho tới thời gian này, số tù nhân miền Nam ở rải rác trong các trại miền Bắc không còn bao nhiêu. Ngoại trừ những người đã bỏ mình vì khổ ải, một số đông đã được tha về và một số khác đã chuyển vào các trại trong miền Nam. Có những người được về khá sớm ngay từ năm 1980. Từ đó, mỗi năm đều có những đợt phóng thích, khi nhiều khi ít, năm nào cũng có. Ngoài những trường hợp được tha lẻ tẻ và bất ngờ, mỗi năm thường có những mốc thời gian để các tù nhân chúng tôi mong đợi và bàn tán. Những dịp để hy vọng đó là Tết Dương lịch, Tết Âm lịch, lễ Lao Động 1 tháng 5 và ngày Quốc Khánh 2 tháng 9. Trong năm còn có đợt tha nhân dịp sơ kết và tổng kết, nhưng không nhiều lắm.

Hát lâu chầu mỏi

Thời điểm đó tôi đang ở trại Thanh Cẩm. Trại này cũng đã có một số rất đông được về và một số chuyển vào trại Hàm Tân trong Nam. Con số tù miền Nam còn lại trong trại Thanh Cẩm không tới 200 người, trong đó có 29 Linh mục. Nếu so sánh với lúc đông nhất vào năm 1979 thì lúc này còn lại không tới một phần ba. Các Linh mục ở khu kiên giam mới xây, cũng nhà nóc bằng rất kiên cố, nằm hướng ra cổng trại. Khu nhà này chia ra 6 buồng liền nhau, có tường cao ngăn cách và có cổng vào riêng biệt. Trước mỗi buồng có khoảng sân nhỏ tráng xi-măng sạch sẽ và có bể nước dùng chung cho 2 buồng giáp nhau.

Bên trong cửa sắt của mỗi buồng là lối đi rộng 1 thước từ cửa cái dẫn vào tới vách bên trong, chia ra một bên là nhà cầu có cửa vào và một bên là bệ nằm bằng xi-măng cao khoảng 60 phân, đủ chỗ cho 6 người nằm sát cạnh nhau. Mỗi buồng có một cửa sổ khá rộng chắn song sắt to, nhưng không to bằng song sắt nhà kỷ luật. Cửa sổ này đủ rộng để cho buồng thoáng khí và cũng dễ dàng cho cán bộ nhìn vào kiểm soát. Trên nguyên tắc, khu vực này “nội bất xuất, ngoại bất nhập”, nhưng trên thực tế không quá khắt khe như vậy.

Về phần mấy người tù Trung Quốc đang ở trong khu Nhà Bằng, tức là khu Kiên Giam cũ. Những người tù ngoại quốc này đã bị giam hơn 15 năm rồi. Lúc đầu, nhóm của họ khá đông, nhưng dần dần một số chết bệnh, một số chết đói, có mấy anh vượt ngục bị bắn chết và bây giờ chỉ còn lại 10 người.

Khi tôi rời khu kỷ luật qua sống bên kiên giam, và Bình Thanh vượt ngục đi rồi, trại Thanh Cẩm còn xảy ra hai vụ án mạng khác nữa, nhưng toàn là bên hình sự. Vụ thứ nhất xảy ra ở khu kỷ luật khi Yên Con dùng tảng đá to đập đầu Chiến Chàm chết ngay tại chỗ trong giờ phát thức ăn trưa, lúc Chiến Chàm đang ngồi săn sóc đám rau muống anh trồng trước sân khu kỷ luật. Sau đó, Yên Con bị kêu án tử hình, nhưng một thời gian sau giảm xuống còn chung thân.

Vụ khác xảy ra dưới làng sau đó ít lâu, khi Minh Con đâm Toản Quảng một nhát thấu tim, chết không kịp trối. Anh Toản chết oan chỉ vì gia đình mới tiếp tế cho ít lạc nên để trong hòm khóa lại. Đêm đó, Minh Con mò tới lấy trộm, cầm con dao nhọn đang nạy hòm. Toản Quảng nghe động thức dậy, ôm chầm lấy Minh Con từ phía sau. Minh Con bị tóm bất ngờ nên đâm ngược ra sau để giải vây, không ngờ thọc mũi dao nhọn đúng ngay vào tim Toản làm anh ta chết ngay tức khắc! Sau đó, Minh Con bị xử trong một phiên tòa thiết lập ngay trong trại, kêu án 18 năm. Cả ba anh Chiến Chàm, Yên Con và Minh Con đều có ở chung buồng với tôi một thời gian trên khu kỷ luật, trong đó Minh Con sống chung buồng với tôi lâu nhất. Minh Con người nhỏ bé, lúc đó khoảng 18 tuổi, nhưng đã là lưu manh chuyên nghiệp từ năm 12, ăn cắp lẹ như sóc và đi Trường Bộ, tức nhà tù Thiếu niên phạm pháp, từ năm 13 tuổi.

Luật lệ trong tù tới lúc này cũng khá co giãn, không còn khắt khe như những năm đầu. Người đời thường nói“hát lâu thì chầu mỏi”. Hoàn cảnh trong tù cũng vậy, lúc đó, chúng tôi nhận thấy rõ tâm trạng mỏi mệt bao trùm trại Thanh Cẩm. Không phải chỉ những người tù cảm thấy mỏi mệt mà ngay cả những cán bộ làm việc trong tù cũng vậy.

Bầu khí căng thẳng, sắt máu, giáo điều và đầy hận thù của những năm đầu khi chúng tôi mới được chuyển ra Bắc không còn nữa và cơn sốt thời cuộc sau khi cộng sản chiếm miền Nam đã giảm cường độ một cách rõ rệt. Một điều ai cũng thấy là bầu khí trong trại tù lúc này dễ thở hơn rất nhiều so với cái thời hắc ám của 10 năm về trước.

Cỏ dại được mùa

Nhớ lại thời gian mới tới trại này 10 năm về trước, tôi vẫn còn cảm thấy lạnh người và khó hiểu. Tại sao vào thời kỳ đó, lòng dạ con người trở nên kinh khủng như vậy? Hay là lòng hận thù giữa người với người giống như một thứ dịch dễ lây và nhiều người bị nhiễm? Tại sao vào những năm đó, trại Thanh Cẩm lại hội tụ nhiều con người hắc ám như thế? Những người có nhiệm vụ áp đảo và trừng trị tù như cán bộ trực trại, cán bộ an ninh, cán bộ võ trang, hoặc những người thay mặt cán bộ để áp đảo tù nhân như các anh trật tự thì không nói làm gì. Đàng này những anh tù được chỉ định làm các việc chuyên môn cũng hắc ám không kém, như anh văn hóa, và cả anh y tá nữa!

Thời Bùi Đình Thi và Trương Văn Phát làm trật tự, trong trại có một anh tù làm y tá tên Hiền. Vai trò y tá phải hiểu là để xoa dịu sự đau khổ thể xác cho tù nhân, nhưng anh y tá tên Hiền này lại chẳng “hiền” chút nào. Anh thật là ‘‘dữ ’’ và ác đức nên được anh em tặng cho danh hiệu “lương y như đao phủ’’ thay vì ‘‘lương y như từ mẫu’’ như người đời thường hay nói! Riêng anh tù làm văn hóa tên là Thuật thì phải nói là quá quắt.

Chức vụ gọi là văn hóa tức là lo việc phát báo chí, thư từ, quà cáp, giúp cán bộ trong các buổi học tập, nhưng anh văn hóa Thuật này là một biệt lệ. Lúc bấy giờ, Thuật còn rất trẻ, có lẽ chừng 26 tuổi (năm 1979) là cùng. Nghe nói anh là một sinh viên bị bắt vì tham gia phong trào Phục Quốc. Người Thuật thấp bé con con, mặt thỏn, mũi nhọn, đi chân chữ bát, nói năng sắc bén. Thời kỳ đó tôi đang bị cùm chân trong nhà kỷ luật sau vụ vượt ngục bất thành. Tôi ở trong buồng kỷ luật cùng với 4 người khác. Ban ngày chúng tôi được tháo cùm.

Một buổi sáng nọ, trước giờ cho ăn, tôi đứng bên trong cửa sổ với một anh bạn khác. Hai người chúng tôi trao đổi câu chuyện có mùi “phản động”. Trước lúc nói chuyện, tôi đã cẩn thận nhìn ra ngoài cửa sổ, thường thì cán bộ và trật tự chỉ lên trong giờ cho ăn, và lúc này chưa tới giờ ăn. Khi đang mải mê câu chuyện, tự nhiên tôi có linh tính như có người bên ngoài đang nghe lóm, nên dí mặt vào song sắt nhìn ra ngoài lần nữa cho yên tâm. Vì tường nhà kỷ luật rất dầy và cửa sổ lại hẹp, chừng 50 phân vuông nên tầm nhìn ra ngoài rất hạn hẹp.

Khi tôi dí sát mặt vào song sắt nhìn ra thì vừa thấy Thuật đang đứng yên, dựa lưng vào tường. Anh ta đứng nép sát lưng vào vách tường, sát bên cửa sổ. Anh ta đã đứng đó tự bao giờ và nghe tất cả những gì chúng tôi nói. Bị bắt quả tang, tôi ngượng ngùng làm sao! Khi vừa trông thấy tôi, Thuật tiến lại đứng ngay bên ngoài, chỉ cách tôi bằng một song sắt. Trong lúc tôi đang bối rối và ngượng ngùng, chưa biết phải làm gì thì Thuật lên tiếng, giọng nhẹ nhàng và sắc bén:
- Hai anh nãy giờ nói cái gì?

Chúng tôi yên lặng, chưa biết trả lời sao thì Thuật lên tiếng nói tiếp:
- Anh Lễ, nãy giờ anh nói cái gì? Tiếp tục nói đi. Tôi nghe anh nói nhiều lắm, mà sao bây giờ anh câm? Nói đi! Nói nữa đi!

Tôi thấy tình thế này quái đản và trơ trẽn quá, nên rời chỗ đứng, định bước vào phía trong, nhưng Thuật lên giọng gọi lại:
- Anh Lễ, đứng đây, anh không được đi! Anh bước lại đây, tôi muốn nghe anh nói!

Lúc đó, vừa xấu hổ, vừa bực mình, vừa điên tiết trước thái độ quá quắt của anh tù trẻ con này, nên tôi bước lại cái thớt nằm bằng xi măng và ngồi xuống, không thèm quay lại cửa sổ. Thái độ này của tôi làm Thuật nổi giận nên nói to vọng vào:
- Anh Lễ, lại đây! Hay anh muốn tôi xuống gọi cán bộ lên?

Tôi chợt suy nghĩ rất nhanh, nếu không trở lại cửa, anh ta sẽ bực tức xuống gọi cán bộ hoặc trật tự lên, chắc chắn tôi lại bị một trận đòn nữa, trong khi lần hành hạ vừa rồi làm tôi chưa đi đứng vững. Nghĩ như vậy, tôi bước trở lại cửa và đối diện với Thuật. Anh ta từ bên ngoài chỉ ngón tay gần đụng vào trán tôi, nghiêm mặt nói:
- Các anh hãy liệu thần hồn! Vào đây rồi hãy bỏ tư tưởng phản động đi nhá. Anh ăn đòn như thế vẫn chưa đủ hả anh Lễ?

Tôi ngượng ngùng đứng lặng yên như trời trồng. Sau câu đó, Thuật dừng lại một chút, đoạn tiếp tục:
- Lần này tôi tha cho, nhưng hãy liệu thần hồn, tôi bắt được mấy anh nói chuyện phản động một lần nữa thì đừng có trách.

Nói xong, anh ta bỏ di. Chúng tôi quay lại chỗ nằm, nhìn nhau thinh lặng. Riêng tôi cảm thấy như máu đang sôi sùng sục lên trong quyết quản làm mặt tôi nóng bừng. Nhưng trong hoàn cảnh đó đành phải cắn răng chịu đựng.

Tình thế đổi thay

Những năm về sau này cuộc sống chúng tôi trong trại Thanh Cẩm dễ thở hơn. Sau những đợt tù chính trị miền Nam được tha về hoặc được chuyển vào Nam, có một số tù hình sự được bổ sung vào và con số tù nhân trong trại lúc nào cũng ở con số chừng 400 người. Khi trật tự Bảy Chà được tha về, thì một anh tù hình sự tên là Tơ lên thay thế làm trật tự. Anh trật tự hình sự này cao to và rất khỏe. Đám tù hình sự rất kiêng nể anh. Mặc dù vậy anh đối xử với số tù chính trị còn lại và nhất là đối với các tù nhân Linh mục rất tử tế và kính nể. Ngược lại chúng tôi cũng giúp anh về nhiều mặt vì lúc đó chúng tôi nhận được quà tiếp tế từ miền Nam tương đối dễ dàng.

Chúng tôi gọi anh trật tự Tơ bằng cái tên thân mật là“Jimmy” theo cách thức trong báo viết tên của vị tổng thống Hoa Kỳ lúc bấy giờ là ông Jimmy Carter. Điều đáng nói là suốt thời gian 4 năm từ 1977 tới 1981, ông Jimmy Carter làm tổng thống Mỹ, tôi chỉ biết tên ông trên mặt báo nhưng chưa bao giờ được trông thấy hình của ông nên cũng chẳng hình dung được con người ông ra sao!

Tính từ năm 1979, hai năm sau ngày tôi ra Bắc, đến nay đã gần 10 năm qua, tình thế lúc nầy đã khác đi rất nhiều. Tù nhân chúng tôi được liên lạc với gia đình, được có người nhà trong Nam ra thăm nuôi và được nhận quà gửi ra theo đường bưu điện. Cuộc sống trong tù khá hơn và những người có gia đình khá giả hay có bà con nước ngoài tiếp tế thì dư thừa, sống xa hoa trong trại. Trong khi đó, các cán bộ vẫn thiếu thốn, nghèo xơ nghèo xác. Dần dần, họ hiểu ra những công thức chính trị rỗng tuếch không làm cho bao tử người ta đầy, không mang lại cơm hai bữa, không mang lại áo quần, thuốc men cho cuộc sống hàng ngày.

Nếu cả nước lúc đó đang lâm vào tình trạng đói khổ, thì các các bộ làm việc trong các nhà tù là những người thiệt thòi nhất. Trong tình thế đó, đồng tiền lại ngoi lên chiếm vị trí cố hữu ngàn đời của nó, như lối định nghĩa đồng tiền của mấy anh tù hình sự bằng mấy câu có vần như sau: “Đồng tiền là tiên là phật,là sức bật của tuổi trẻ, là sức khỏe của tuổi già, là đà danh vọng, là lọng che thân, là cân công lý. Đồng tiền hết ý!”

Và đồng tiền “hết ý” thật! Chính đồng tiền đã trở thành cây cầu bắc ngang lằn ranh giữa cán bộ và tù nhân để tạo nên mối tương quan hai chiều. Trong mối tương quan này, cả hai cùng có lợi. Vào những năm cuối cùng ở trại Thanh Cẩm, các anh em Linh mục chúng tôi sống chung nhau trong một khu vực ngăn cách với số tù nhân khác. Lúc bấy giờ có một số giáo dân xứ Bắc Hải ở khu vực Ngã Ba Ông Tạ trong Nam vì thương hoàn cảnh các Linh mục bị tù quá lâu nên đã tự động quyên góp và tổ chức gởi quà cho chúng tôi theo đường bưu điện. Nhờ đó cuộc sống của nhóm Linh mục không còn phải thiếu thốn như các năm đầu.

Chúng tôi không hề biết mặt những ân nhân hiếm có này, chỉ biết họ qua các tên đề ngoài những gói quà và các thư ngắn kèm theo. Dần dần chúng tôi trở nên thân thiết với các bà các cô trong nhóm ân nhân đó. Trong hoàn cảnh ấy chỉ có các phụ nữ mới có thể làm các việc như thế mà không sợ bị dòm ngó, theo dõi. Tôi vẫn nhớ và biết ơn những chị em trong nhóm này như các chị Đinh Thị Thập, Nguyễn Thị Đương, Cát Thị Kim Chi, hai chị em Trần Thị Nhị và Trần Thị Kim Loan, Ông Bà Kim Tâm và một số người khác nữa mà tôi không nhớ tên.

Ngoài ra lúc đó anh em Linh mục trong tù cũng nhận được quà tiếp tế của Thầy Chiểu, Cha Vũ Khoa Cử, Cha Phạm Hữu Nam từ Sài Gòn và của cha Mai, thay mặt đức Hồng Y Trịnh Văn Căn ở Hà Nội gởi giúp chúng tôi. Cha Phạm Hữu Nam ở tù chung với chúng tôi nhưng được về sớm. Khi về Sài Gòn, cha Nam đã cùng với người cháu là cô Nguyễn Thị Hải rất tận tình lo gởi quà giúp cho số Linh mục còn lại trong tù.

Các Linh mục, tuy là ở khu kiên giam nhưng nhờ sự giao tế quà cáp với cán bộ, nên thỉnh thoảng chúng tôi cũng tiếp xúc được với anh em trong các buồng khác. Nhờ đó, chúng tôi có thể giúp đỡ về vật chất và tinh thần cho một số người cần giúp, nhất là những người sống trong trại lâu năm mà không có thân nhân, đặc biệt là nhóm tù hình sự. Vì sự giúp đỡ rộng rãi đó mà anh em trong trại lúc bấy giờ, mỗi khi nhận được quà, thường gọi đùa là “Vatican viện trợ!”

Lúc đó chúng tôi cũng được phát báo để đọc hàng ngày, tiếng trong tù gọi đọc báo la “học tập báo chí” . Chỉ có hai tờ báo là tờ Nhân Dân và Quân Đội Nhân Dân. Tôi để ý thấy lúc bấy giờ người ta dùng hai chữ nhân dân khá nhiều. Cái gì cũng nhân dân, tòa án Nhân Dân, Công an Nhân Dân, Quân đội Nhân dân, Viện kiểm sát Nhân Dân. Có điều tôi không hiểu và vẫn còn thắc mắc hoài là tại làm sao người ta lại không gọi Ngân Hàng Nhân Dân mà lại gọi là Ngân Hàng Nhà Nước!

Tin tức báo chí thật ra chẳng có gì đáng chú ý. Vì là cơ quan tuyên truyền của đảng nên các bài báo phần nhiều nặng nề chính trị đầy những lý luận khô khan và nặng nề. Báo Quân Đội Nhân Dân thì thỉnh thoảng còn có các bài viết về khoa học, lịch sử, y học... Còn báo Nhân Dân thì toàn chính trị là chính trị. Cầm tờ báo lên chẳng biết đọc cái gì!

Nơi trang nhất của báo Nhân Dân bao giờ cũng đăng tin tức về thành quả nông nghiệp. Thành tích thu hoạch các vụ Hè Thu, vụ Đông Xuân của hợp tác xã này hoặc hợp tác xã nọ là bao nhiêu tấn thóc. Bao giờ các vụ thu hoạch này cũng vượt chỉ tiêu. Có những hợp tác xã vượt chỉ tiêu thấy mà phát sợ. Đọc tin tức nông nghiệp trên báo Nhân Dân nhiều lúc tôi đâm ra lo. Nếu tình trạng bội thu này kéo dài mà nhà nước ta không lo xuất khẩu gạo cho nhanh thì đất nước ta lấy kho lẫm đâu mà chứa cho hết số thóc vượt chỉ tiêu! Có lần chia sẻ sự lo lắng này với một anh bạn tù, anh mỉm cười nói nhỏ vào tai tôi:“Anh đừng có lo, trong tờ báo Nhân Dân này chỉ có cái... địa chỉ tòa soạn là in đúng thôi!”

Điểm đặc biệt của báo Nhân Dân là rất ít đăng hình ảnh. Chỉ trừ một bức hình nho nhỏ nơi trang nhất, hoặc cùng lắm là có thêm một hình nhỏ hơn ở cuối trang, còn lại kín cả tờ báo toàn chữ là chữ! Bình thường cầm tờ báo lên đã chóng mặt với cái rừng chữ, nhưng nếu vào các dịp đại hội đảng thì chữ nghĩa càng nhiều và nhỏ hơn! Tôi nhớ những lần tờ báo đăng nguyên văn bản báo cáo chính trị của Tổng Bí Thư đảng. Nhìn bản báo cáo chính trị trải dài hết trang này qua trang khác của tờ báo làm tôi rợn người.

Có lần tôi cũng quyết tâm đọc thử một lần coi người ta nói cái gì trong bản báo cáo chính trị đó mà chữ nghĩa tràng giang đại hải như vậy. Sau khi đọc mỏi cả mắt tôi mới thấy người ta viết thật nhiều nhưng ý chẳng được bao nhiêu. Tôi chợt nghĩ thương cho các đại biểu ngồi trong hội trường phải nghe cho hết bản báo cáo chính trị này, thỉnh thoảng còn những chỗ dừng lại để vỗ tay theo người đọc nữa, chắc cũng mệt không kém gì tôi đang ngồi đập đá dưới nắng mùa hè trong trại tù Thanh Cẩm trong ngày có gió lào!

Báo Quân Đội Nhân Dân dễ đọc hơn, vì còn có những bài thuộc phạm vi nghiên cứu hoặc tin tức thời sự kèm theo, với khá nhiều hình ảnh. Qua đó chúng tôi biết một phần nào tin tức bên ngoài. Cũng trong báo Quân Đôi Nhân Dân này có lần tôi đọc loạt bài đăng làm nhiều kỳ về “tên phản động Võ Đại Tôn” từ nước ngoài về cố ý xâm nhập biên giới để chống phá chánh quyền cách mạng đã bị “quân đội Nhân Dân ta “ bắt giam và xét xử tại Hà Nội” vào năm 1982. Bài báo kèm theo khá nhiều hình ảnh của “tên phản động Võ Đại Tôn” lúc bị xét xử và đưa ra trình diện với báo chí trong và ngoài nước tại Hà Nội. Dĩ nhiên lúc đọc tin đó tôi rất quý mến và cảm phục tinh thần bất khuất của Đại tá Võ Đại Tôn.

Cũng có thời gian tôi đọc loạt bài rất dài nói về cái chết của ”tên phản động Hoàng Cơ Minh” kèm theo với nhiều hình ảnh về “tội ác phản cách mạng” của nhóm Mặt Trận do Hoàng Cơ Minh cầm đầu xâm nhập phá hoại... Dĩ nhiên là tôi phải đọc ...giữa hai hàng chữ. Khi đọc các tin tức liên quan tới các ông Võ Đại Tôn và Hoàng Cơ Minh đó, tôi cảm thấy vui và nghĩ rằng ít ra trong thời buổi lúc bấy giờ còn có được những con người như vậy.

Cũng nhớ lần tôi đọc thấy trong báo Quân Đội Nhân Dân đăng bức hình của ông Nguyễn Cao Kỳ, mang kính đen, đang chen chúc giữa đám đông cố ôm càng máy bay trực thăng ở tòa Đại Sứ Mỹ để di tản khỏi Sài Gòn trong một ngày cuối tháng tư năm 1975. Tôi không biết đây là hình thật hay người ta dũng kỹ thuật ghép hình để cố ý bêu xấu ông. Bên dưới tấm hình in những lời lẽ có tính cách sỉ nhục ông Kỳ khá nặng nề.

Tù nhân trại Thanh Cẩm, năm nào chúng tôi cũng có một đợt học tập chính trị trên hội trường nằm tận ngoài cơ quan. Những lớp này được tổ chức chung cho cả hình sự lẫn tù chính trị, có một cán bộ tuyên huấn từ trung ương về nói chuyện và thường thì năm nào cũng một cán bộ đó. Vì cứ bổn cũ soạn lại nên chúng tôi thuộc gần như nằm lòng những gì ông sắp nói. Trong các bài học tập chính trị, năm nào ông ta cũng kể lại câu chuyện ông đi thăm nước Kuwait, là nước có nhiều dầu hỏa, và thấy trẻ con xứ đó chơi đánh đáo bằng những đồng tiền vàng. Ông nói mỏ dầu nước ta còn lớn hơn mỏ dầu ở Kuwait, và sẽ có lúc trẻ con Việt Nam sẽ chơi đánh đáo bằng tiền vàng.

Vì năm nào ông ta cũng kể lại câu chuyện đó nên mỗi lần được thông báo có đợt học tập chính trị, chúng tôi bảo nhau:“Chuẩn bị sắp có đợt...đánh đáo!” Và đúng y như vậy, ông cán bộ này nói một thôi một hồi rồi thì bắt đầu...đánh đáo bằng tiền vàng. Cho tới một lần kia, trong lúc ông ta đang say sưa...đánh đáo thì giữa hội trường vang lên một giọng nói thật to, át cả tiếng cán bộ tuyên huấn:
- ĐM! Ăn sắn mà nói phét!

Nghe câu đó, cả hội trường cười rần, nhưng chỉ có tù hình sự dám cười, còn tù chính trị chúng tôi cứ phải giả vờ như không nghe! Người cán bộ tuyên huấn đang... đánh đáo bị mất hứng, dừng lại, trong khi cán bộ quản giáo đội hình sự đứng lên quát to:
- Anh nào ăn nói bố láo thế hả? Anh nào? Anh nào?

Khi biết là một anh tù thuộc diện lưu manh đã nói, cán bộ chỉ mắng qua loa rồi bỏ qua. Nếu là tù chính trị chúng tôi, chắc là hậu quả không lường được.

Cây đa cũ, bến đò xưa

Ngày 27 tháng Giêng năm 1988, bất thần chúng tôi được lệnh chuyển trại! Như vậy, tính ra tôi đã ở trại Thanh Cẩm còn thiếu 6 tháng nữa là đúng 10 năm. Trong lần chuyển trại này, tất cả tù chính trị miền Nam cùng với nhóm tù Trung Quốc đều rời trại Thanh Cẩm và được đưa về trại Nam Hà, trong tỉnh Hà Nam Ninh. Trại Nam Hà đối với những người khác là chỗ mới, nhưng riêng với tôi, đây là cuộc tái ngộ, vì tôi đã sống ở trại này 11 năm về trước, khi được chuyển từ trong Nam ra vào tháng Tư, 1977.

Tôi quay trở lại trại Nam Hà với tâm trạng chán chường và buồn nản của con người đang đi trong một vòng tròn khép kín. Mười một năm qua với bao đổi thay trong số những anh em bạn bè đã ở đây với tôi trước kia. Có người đã chết, có người đã được về, một số chuyển vào các trại trong miền Nam và một số nhỏ vẫn đang còn ở đây. Riêng tôi, bị gọi ra trong đêm Giáng sinh 1977 để đưa lên trại trừng giới “Cổng Trời”, rồi 8 tháng sau được chuyển về “đáy địa ngục” Thanh Cẩm và bây giờ lại lộn trở về trại Nam Hà. Lúc từ giã ra đi, tôi là một thanh niên khỏe mạnh 34 tuổi. Hôm nay trở lại, tôi đã là một người trung niên 45 tuổi, thương tật đầy người và tóc đã trổ màu muối tiêu. Thật là ngán ngẩm và trớ trêu cho cuộc đời!

Trại Nam Hà không thay đổi nhiều trong thập niên qua, chỉ có thêm một số dãy nhà cạnh bên nhà bếp nằm sát bờ tường hướng ra cổng trại. Nhưng điều đập vào mắt tôi mạnh nhất là sự bừa bãi, lộn xộn và bệ rạc của các buồng giam. Ngày tôi còn ở đây, phía sau các buồng là đường đi rộng rãi. Bây giờ, nơi đó được che thêm những tấm vải bạt, vải nhựa chi chít như các sạp cá chợ Cầu Ông Lãnh! Ngày trước, chung quanh các buồng sạch sẽ, thoáng mát, bây giờ chất cao ngất nào hòm rương, nào thùng thau, nào xoong chảo, chén bát, bao bì, túi cói... không thiếu một thứ gì trên cõi đời này. Thật chẳng khác nào khu chợ chó đường Hàm Nghi trong những năm cộng sản chưa chiếm miền Nam.

Khi tới nơi, tôi mới biết là cũng có nhiều tốp tù nhân miền Nam từ các trại khác rải rác ở miền Bắc cũng được đưa hết về đây, biến trại Nam Hà thành một kho chứa hàng. Vì thế, chỉ trong một thời gian ngắn, con số tù nhân trong trại trở nên đông đúc một cách khác thường, nhưng tôi không biết rõ là bao nhiêu.

Về đây, tôi gặp lại một số người ở chung với tôi trước kia. Tất cả đã thay đổi rất nhiều qua năm tháng vì sự lao nhọc, vì thiếu thốn và đói khát trong tù. Có những người đã từng ở chung đội với tôi trước kia, gặp lại nhau vô cùng mừng rỡ. Khi hỏi thăm mới biết đa số đã chết, phần nhiều là chết đói, và được chôn ở nghĩa địa nằm sát bờ rào trại mà ngày tôi ra đi, nghĩa địa này chưa có. Hỏi thăm kỹ mới biết phần lớn những người chết là thành phần trẻ. Trong lúc đói quá và không tự kềm chế được, họ đã ăn các loại rau rừng dơ bẩn và phần đông chết vì bị kiết lỵ.

Lần này tôi về đây, trong trại có một số tướng lãnh miền Nam. Những người này tới trại sau khi tôi đã được chuyển đi. Tôi không biết nhiều các vị tướng này, duy chỉ có Tướng Trần Bá Di là tôi quen, vì lúc ông làm Tư lệnh Sư đoàn 9 đóng ở Vĩnh Long, cũng là lúc tôi đang làm việc tại Nhà thờ Chánh tòa. Tướng Di là người Công giáo và thường hay đi lễ nhà thờ đó, nên chúng tôi biết nhau. Tôi cũng gặp một số Linh mục Tuyên úy từ các trại khác về đây. Trong số đó có mấy người là bạn học với tôi trong Đại Chủng viện Sài Gòn, một số khác tôi chỉ nghe tên nhưng chưa biết nhau bao giờ.

Vòng tròn khép kín

Sáng hôm sau, số tù trại Thanh Cẩm chúng tôi được phân phối vào các đội và các buồng. Tình cờ tôi được trở lại buồng cũ trước kia, buồng 6, nơi tôi bị gọi ra trong đêm Giáng Sinh 1977. Chẳng phải hạnh phúc gì khi được trở lại buồng cũ, vì buồng nào cũng chỉ là nhốt tù! Nhưng dầu sao nó cũng để lại những dấu ấn kỷ niệm quen quen của đời tù.

Vào buồng cũ, tôi lại cố ý chiếm cái chỗ cũ trước kia của tôi trong góc phía trên. Nhìn lên bờ tường, tôi vẫn còn thấy cây đinh mà chính tay tôi đã đóng 11 năm về trước để treo lon nước. Cây đinh vẫn còn đó nhưng đầu đã mòn bóng láng.

Đêm đầu tiên, chập chờn trong giấc ngủ, tôi nằm nhắm mắt nhưng cứ tưởng như mình đang nằm ở đây vào đêm 23 tháng 12 năm 1977. Trong phút chốc, quãng thời gian 11 năm của đời lao tù lướt qua như không hiện hữu.

Tôi tưởng chừng như có nghe kể một câu chuyện về một người tù nào đó bị gọi ra khỏi buồng 6 này trong đêm Giáng Sinh 11 năm về trước. Người đó vô tình lại trùng tên và trùng họ với tôi. Số phận người đó ra sao kể từ đêm Giáng Sinh năm đó tôi không biết được. Còn tôi đang nằm đây, ngủ một giấc ngủ thật dài đúng 11 năm, một giấc ngủ thật nhiều mộng mị và hôm nay chợt giật mình thức giấc. Khi tỉnh dậy mở mắt ra nhìn lên tường vẫn còn thấy cái lon Guigoz đựng nước uống treo lủng lẳng trên cây đinh tôi đóng trên tường. Có khác chăng là bạn bè nằm kế bên bây giờ là những người mới, già nua và mệt mỏi.

Ngày hôm sau và những ngày kế tiếp, chúng tôi vẫn chưa đi lao động. Khi tới một trại mới, tù nhân còn phải lo làm các thủ tục hành chánh, khám xét đồ đạc, lo khám bệnh, lo việc lưu ký tiền và đồ vật... Cán bộ trong trại toàn là những người lạ, chỉ có một người tôi đã gặp 11 năm về trước, đó là Thượng úy Thịnh. Khi chúng tôi mới tới trại Nam Hà năm 1977, anh này mới là Thượng sĩ trực trại. Tôi nhớ rất rõ vì anh có những nét đặc biệt khó quên. Người anh cao to, nước da đen, chân mày rậm và xước. Khi bước đi, lưng anh hơi khum và khuỳnh hai cánh tay cho oai vệ hơn. Thời đó, Thượng sĩ Thịnh là một thứ hung thần và được chúng tôi tặng cho biệt hiệu là “Quận Hách”. Bây giờ, sau 11 năm, gặp lại “Quận Hách” đã là Thượng úy, nhưng có lẽ bị thất sủng nên chỉ là quản giáo coi một đội hình sự làm thủy lợi.

Cán bộ trực trại bây giờ là Trung úy Lực, khoảng ngoài 30 tuổi, nước da ngăm đen. Mặc dù còn trẻ, nhưng tóc anh đã bạc khá nhiều. Trung úy Lực không mấy khi cười nói, nhưng anh em ở đây lâu cho biết, anh ta rất tốt và dễ dàng. Sau này, tôi được biết đa số tù nhân ở đây là người có của, họ đã giúp cán bộ trực trại và các cán bộ khác rất nhiều và điều này đã tạo nên sự thân thiện, gần gũi giữa cán bộ và tù nhân. Qua ngày thứ hai, chúng tôi lo làm thủ tục gửi tiền lưu ký.

Vào những năm sau cùng ở trại Thanh Cẩm, tù nhân được liên lạc với gia đình khá dễ dàng nên nhiều người được gia đình gửi tiền ra cho. Nhưng với luật lệ trong tù, chúng tôi không được giữ tiền mặt mà phải gửi lưu ký, giống như mở trương mục trong ngân hàng. Tiền bạc và sổ sách do cán bộ tài vụ của trại cất giữ. Khi cần mua bán gì, cán bộ sẽ ghi vào sổ riêng của từng người. Lúc còn ở trại Thanh Cẩm, chúng tôi cũng nhờ cán bộ giúp mua nhiều thứ hàng, nhưng khi về trại này, chúng tôi mới ngạc nhiên về tình trạng mua bán công khai và nhộn nhịp như một siêu thị! Thậm chí trong trại Nam Hà này có vài người chuyên nghề buôn bán để gửi tiền về gia đình, những người này được tặng danh hiệu là “Chành”. Có vài anh “Chành” buôn bán phát đạt bằng mấy lần người dân bên ngoài! Điều này càng xác định hơn nữa cho sức mạnh của đồng tiền.

Gió thoảng trưa hè

Cán bộ tài vụ trại Nam Hà lúc bấy giờ là một phụ nữ. Hôm đó, trong khi chúng tôi đang chộn rộn thu xếp đồ đạc trước cửa buồng thì cô ta bước vô sân, tay cầm quyển sổ bìa cứng, màu đen khá dầy. Khác với thái độ cách ngăn và hách dịch của nhiều cán bộ lo phần hành chuyên môn mà tôi từng gặp ở các trại, cô cán bộ tài vụ này rất duyên dáng, bước vào sân với nụ cười thật tươi trên môi. Khi chúng tôi quay lại chào, cô cười đáp:
- Gớm! Sao mà các anh lắm đồ đạc thế!

Đó là câu nói đáp lại lời chào. Sau đó, cô tự giới thiệu là cán bộ tài vụ và nói anh đội trưởng cho anh em tới để xác nhận tiền lưu ký của trại Thanh Cẩm chuyển đến. Cô nói khi cô gọi tên ai thì tới xác nhận, nếu đúng thì ký tên vào sổ. Nói xong, cô ngồi ngay xuống bậc thềm cao khoảng 5 tấc của buồng giam, trong khi chúng tôi đứng vây quanh chờ đợi.

Trong khi chờ gọi tên mình, tôi để ý quan sát người nữ cán bộ khoảng 30 tuổi này. Cô đã gây ấn tượng tốt ngay từ phút đầu. Vóc người cô nhỏ nhắn và gọn gàng, nước da trắng ngần, khuôn mặt trái xoan và có sự hài hòa cân đối giữa mũi, miệng và đôi mắt. Cô mặc áo sơ mi trắng, quần đen, chân mang dép nhựa đen có gót khá cao. Tôi đoán là cô muốn cho mình cao hơn một chút với đôi dép này. Đầu để trần, mái tóc được kẹp và vắt ngược lên đỉnh đầu một cách đơn giản, nhưng làn tóc mây dài lại được nhẹ nhàng thả hờ xuống hai bên má. Cô không trang điểm, không chải chuốt, tất cả đều bình dị và tự nhiên.

Mới nhìn qua, cô không phải là người phụ nữ đẹp sắc sảo, nhưng cô có cái đẹp bình dị và rất duyên dáng trong cách gợi chuyện và nói cười với những người đang tiếp xúc. Người nữ cán bộ này nói năng chậm rãi, nhẹ nhàng và khi cười để lộ hàm răng trắng có 2 chiếc răng khểnh. Khi nói chuyện, cô có thói quen kéo dài tiếng sau cùng tạo nên vẻ độc đáo. Cô hay dùng chữ “gớm” một cách khéo léo để diễn tả thật nhiều ý nghĩa trong nhiều trường hợp. Có một anh, có lẽ vì chữ ký có vẻ tài tử, sau khi kiểm lại số tiền và ký tên vào sổ, được cô chiếu cố với nụ cười hồn nhiên khi nhìn anh ký, với câu:
- Ối giời ơi! Chữ ký của anh sao mà "gớm" thế!

Sau khi hoàn tất công việc, cô ở nán lại trong sân, hỏi thăm chúng tôi một lúc rồi từ giã ra đi. Có mấy người bàn tán sau khi cô bước ra khỏi sân.

Những ngày tiếp theo, tôi tìm dịp thăm lại các bạn đã ở với tôi tại trại này trước kia. Trong số đó, có Mục sư người Thượng là Điểu Huynh. Ngày trước, chúng tôi chơi rất thân và thường để giờ chia sẻ Kinh Thánh với nhau. Từ 11 năm qua, anh Điểu Huynh vẫn ở trại này, nên qua anh, tôi có thể biết tất cả những diễn biến trong trại. Những biến cố gì quan trọng đã xảy ra, những nhóm nào tới, những ai đã được về, ai đã chết và chết bằng cách nào, những ai được chuyển về Nam, v.v... Về lại chốn xưa, nhìn khung cảnh trại và cảnh vật chung quanh, tự nhiên tôi nhớ rất nhiều những người bạn ở cùng phòng, mà bây giờ đã nằm yên dưới lòng đất. Tôi nhớ từng người, từng tên, từng khuôn mặt, cả tính tình và cách ăn nói, cũng như lối pha trò đùa vui của họ.

Giờ thứ hai mươi lăm

Chúng tôi về đây không bao lâu thì có đợt tha thật đông và thật linh đình trong dịp Tết Mậu Thìn 1988 . Thì ra, sở dĩ tù nhân chính trị miền Nam các trại khác được tập trung về đây là để Nhà nước biểu diễn trong đợt tha ngoạn mục này. Đây là đợt phóng thích được tổ chức một cách rầm rộ nhất từ trước tới nay. Trong lễ phóng thích, có rất đông cán bộ trung ương cùng với phái đoàn báo chí và các hãng thông tấn trong và ngoài nước. Số tù chính trị miền Nam được tha trong đợt này lên gần tới con số ngàn người.

Cũng trong lần tha đó, tất cả tù nhân Linh mục đều được về chỉ còn sót lại hai người là cha Nguyễn Bình Tĩnh, thuộc Giáo phận Ban Mê Thuột và tôi. Cũng vì có các phóng viên nhà báo nên trong ngày lễ phóng thích đó, những người nào không được tha đã bị đưa đi giấu ngoài đồng. Một số khác, có tôi ở trong đó, bị nhốt trong các buồng nằm tận bìa rào của trại, cửa bị khóa, cửa sổ bịt kín và cổng vào buồng cũng khóa. Điều tệ hại hơn nữa là những người bị giấu này lại “quên” cho ăn, tới khi lễ phóng thích xong và phái đoàn báo chí rời trại rồi mới được ăn bữa sáng, lúc bấy giờ đã gần 4 giờ chiều! Hôm đó, những ai được tha về thì hí hửng như lên mây, còn người ở lại đói mờ con mắt!

Sáng hôm sau, trại tù Nam Hà trở nên tưng bừng náo nhiệt chưa từng thấy. Hàng ngàn con người đi lại rộn ràng giữa các buồng và trong sân. Chỗ nào cũng vang dậy tiếng cười, tiếng nói, tiếng gọi nhau ơi ới. Tôi buồn bã ngồi một chỗ, tựa lưng vào tường, khoanh tay trước ngực và theo dõi cảnh người ta bắt tay từ giã, nhắn gửi, dặn dò nhau, trông chẳng khác nào một đàn ong vỡ tổ.

Những thứ đồ đạc, hòm rương, bao bì, túi cói, nồi niêu, xoong chảo mà hàng chục năm nay cố xếp gọn vào một nơi nào đó, bây giờ được vỡ tung ra nằm la liệt khắp nơi. Đồ ăn, thức uống, gạo thóc, củi đuốc được lôi ra. Thứ gì có thể mang theo được thì mang, cái gì trối cho người ở lại thì cho, còn cái gì không cần thì vất đi. Hàng mấy trăm con người được tha về, bày biện đồ đạc đầy ngập cả phòng, ra tới ngoài sân. Trông họ như những người đang sống trên mây. Họ cứ phải di chuyển liên tục.

Hình như sự vui mừng quá độ lúc đó bắt buộc miệng họ phải nói, chân họ phải bước đi. Họ lăng xăng bắt tay người này, vỗ vai người nọ, mừng mừng tủi tủi, chúc nhau muôn điều may mắn trong cuộc sống tương lai màu hồng trước mắt. Lúc đó, tự nhiên tôi nhớ lại hình ảnh trong phim “Ten Commandments”(Mười Điều Răn), đoạn diễn tả cảnh người Do Thái nhộn nhịp trong ngày ông Moses dẫn họ ra khỏi nước Ai cập, chấm dứt thời kỳ nô lệ.

Khi nhìn cảnh anh em bắt tay từ giã ra về, lòng tôi buồn vô hạn. Nhất là khi thấy các anh em Linh mục đã từng chung sống với tôi trong nhiều năm qua, bây giờ ra đi, khiến tôi bị hụt hẫng và cảm thấy bị mất mát quá lớn. Những năm tháng dài anh em sống chung với nhau, tôi không nhận thấy hết được ý nghĩa của một thứ tình gia đình. Giờ đây, qua giây phút chia tay, tôi chợt thấy trống vắng và mất đi sự hỗ trợ rất cần cho cuộc sống trong tù. Lúc đó, hai hàng nước mắt tôi chảy dài một cách tự nhiên và tôi không sao kềm hãm được. Không hiểu tại sao tôi đã khóc! Về sau này, có thì giờ suy nghĩ, tôi biết lúc đó tôi khóc vì phải chia tay với những người quá thân ái, quá gần gũi và giúp tôi rất nhiều trong những năm chung sống. Nhất là giai đoạn tôi vừa ở nhà kỷ luật mới ra, với thân tàn ma dại và tinh thần sa sút.

Sự nâng đỡ về tinh thần và vật chất của các anh em Linh mục thật quý báu đối với tôi lúc bấy giờ. Một lý do khác làm nước mắt tôi chảy dài là tôi cảm thấy quá xót xa cho thân phận mình. Tôi thật sự bị hụt hẫng vì đã đặt hy vọng quá nhiều sẽ có tên trong đợt tha này. Sáng hôm đó, có nhiều anh em Linh mục đi ngang chỗ tôi nằm nhưng chỉ dám liếc nhìn mà không dám tới. Tôi biết là các anh em rất thương và cảm thông với tâm trạng đau buồn của tôi nên không tới bắt tay từ giã, sợ nỗi buồn của tôi sẽ tăng thêm.

Nhớ lại thời gian 30 anh em Linh mục chúng tôi ở riêng biệt trong khu kiên giam trại Thanh Cẩm, tôi coi đó như một hồng ân cho riêng đời tù của tôi. Mặc dù sống chung lâu ngày trong phòng giam chật hẹp và thiếu thốn mọi tiện nghi, đôi khi giữa các anh em Linh mục cũng có những va chạm, xích mích và cãi vã nhau, có lúc cũng nặng lời to tiếng, nhưng không bao giờ chúng tôi để các sự va chạm ấy kéo dài qua đêm.

Vì ở trong khu vực riêng biệt, có tường rào bao bọc, nên chúng tôi có điều kiện thuận tiện để dâng Thánh Lễ với nhau hằng ngày, sau giờ điểm danh vào buồng. Trước khi cùng dâng Thánh Lễ, nếu ai có điều gì buồn phiền và xích mích nhau trong ngày, anh em xin lỗi và tha thứ cho nhau để mọi người trở nên hòa thuận tốt đẹp, như không có chuyện gì xảy ra. Dĩ nhiên, đã là con người thì ai cũng có bản tính khác nhau, dù họ là Linh mục hay người thường. Hoàn cảnh tù đày nghiệt ngã có khi đã đẩy con người xuống đáy tầng địa ngục. Lúc đó, bản tính bất toàn của con người muốn tìm một chút thoải mái riêng tư cũng bộc lộ qua cách hành sử của vài anh em Linh mục, kể cả tôi.

Dầu vậy, xét chung, tôi phải ghi nhận là tập thể Linh mục trong tù lúc đó là một tập thể rất tốt. Đại đa số là những con người hiền hậu, rộng lượng và đầy tình bác ái. Không phải chỉ đối xử tốt trong tình thương yêu với nhau mà thôi, mà còn tốt với tất cả mọi tù nhân khác, khi điều kiện có thể giúp đỡ họ được. Tôi rất hãnh diện có mặt giữa tập thể Linh mục đó. Họ như là những chứng nhân đích thực của tình yêu Thiên Chúa giữa những anh em tù và cả về phía cán bộ nữa.

Lúc bấy giờ, tôi là người trẻ tuổi nhất trong số Linh mục mà phần đông là những Tuyên úy Quân đội trình diện đi học tập, chỉ có chừng 5 hoặc 7 người bị bắt vì lý do khác như tôi. Một điều tôi ghi nhớ mãi và hứa là khi nào có dịp kể lại giai đoạn tù tội, tôi phải nói lên sự kính mến của tôi và của anh em đối với một vị Linh mục trong nhóm là cha Đinh Trọng Tự, Tuyên úy Quân đội thuộc Giáo phận Cần Thơ. Cha Tự học trên tôi 3 năm trong Đại Chủng viện Thánh Giuse tại Sài Gòn. Mặc dù trên tôi 3 lớp, nhưng cha Tự đã khá lớn tuổi vì cha đã có thời động viên đi quân dịch và mang cấp bậc Thiếu úy. Sau khi giải ngũ, ngài trở lại đi tu tiếp.

Cha Đinh Trọng Tự lúc ở Thanh Cẩm quãng 45 tuổi, người gầy ốm và cao lêu khêu như cây tre miễu, nói năng nhỏ nhẹ và ôn tồn. Sống giữa tập thể anh em Linh mục, có kẻ lớn người nhỏ, cha Tự đã tỏ ra là một người hiền hòa thân ái và được tất cả anh em kính mến. Đặc biệt là nếu có sự va chạm cãi vã nhau giữa anh em, thì chính cha Tự là người làm hết mọi cánh để mang lại hòa khí giữa anh em. Thông thường, vai trò trung gian hòa giải của cha Tự đều được anh em nghe theo. Nhưng cũng có mấy lần gặp trường hợp căng thẳng quá, tôi thấy cha Tự đã phải khóc khi năn nỉ hai người đang bất hòa tha thứ cho nhau.

Tính tình nhân hậu và ôn hòa đó của cha Đinh Trọng Tự đã đóng góp rất nhiều trong sự mang lại đoàn kết và thân ái giữa tập thể anh em Linh mục trong tù. Lúc bấy giờ, anh em chúng tôi thường nói với nhau, nếu Tòa Thánh cho chúng tôi chọn một Giám mục để hướng dẫn cộng đồng dân Chúa trong tù, chúng tôi sẽ chọn cha Đinh Trọng Tự. Ngoài ra, giữa chúng tôi cũng có những Linh mục lớn tuổi và đáng kính. Các ngài để lại trong tôi sự thương mến và kính phục về tư cách, sự hiền từ và tinh thần bác ái cao độ như các cha Đinh Cao Thuấn, Cao Đức Thuận, Lê Đức Triệu (nhạc sĩ Hoài Đức), Phạm Ngọc Lan. Những Linh mục cao niên này thường được chúng tôi gọi là “Bố” để bày tỏ sự tôn kính.

Khi những người được phóng thích đã ra về, trại Nam Hà trở nên xác xơ, buồn tẻ và trống vắng khác thường. Chỉ còn lại một ít tù chính trị miền Bắc và 350 người miền Nam. Sau đợt tha đó, tôi được chuyển qua một đội tạp dịch, lo dọn dẹp vệ sinh và các việc linh tinh khác bên trong trại. Đội này do anh Của, trước kia là Đại tá Tỉnh trưởng Châu Đốc, làm đội trưởng.

Lúc bấy giờ, trong trại cũng còn lại 9 vị tướng, sống trong một buồng riêng và không đi lao động bên ngoài. Về phía Linh mục, còn lại 7 người của cả miền Bắc lẫn miền Nam. Miền Bắc có các Linh mục Thi, Hiểu và Vĩnh. Miền Nam có cha Nguyễn Bình Tĩnh và tôi, cộng thêm hai Linh mục, Nguyễn văn Lý và Lê Văn Nghiêm, thuộc Tổng giáo phận Huế, mới bị bắt 2 năm, đưa ra trại Thanh Cẩm với chúng tôi và cùng chuyển lên đây.

Anh em chia lìa

Đêm đầu tiên, sau khi các Linh mục được tha đã rời trại ra về, tôi nằm trằn trọc không sao ngủ được. Sự thất vọng ê chề đã làm tôi đau đớn. Phải nói là từ lúc bị bắt, không một lúc nào sự ước muốn tự do không hành hạ tôi. Những năm đầu, nhận biết thân phận mình nên tôi chưa dám mơ tưởng tới việc được tha về. Lúc đó, tư tưởng vượt ngục lại ám ảnh tôi rất mãnh liệt. Cho dù thời gian nào, trại nào, hoàn cảnh nào tôi cũng đều tìm cách vượt ngục, nếu không bằng cách này thì bằng cách khác, kể cả những cách nguy hiểm và liều lĩnh nhất. Sau vụ vượt ngục bất thành năm 1979 tại trại Thanh Cẩm, tôi đã phải trả một giá quá đắt và sau vụ đó một thời gian rất lâu, tôi không còn hy vọng được tha như những tù nhân khác.

Tới năm 1986, tức là 8 năm sau ngày vượt ngục bất thành, tôi lại bắt đầu có hy vọng vì trong thời gian đó có rất nhiều người được tha. Mỗi năm, số người được tha càng nhiều và những dịp cứu xét tha càng thường xuyên hơn. Lúc đó, ngồi nhìn những anh em được thơ thới hân hoan ra về, trong đó cũng có vài Linh mục, lòng tôi đầy những ước mơ, cho dù là một thứ hy vọng khá mong manh.

Bắt đầu năm tù thứ 10, tôi càng hy vọng nhiều hơn, vì nghe nói mỗi lệnh tập trung cải tạo là 3 năm, mà tôi đã ở tù 10 năm, tức là được 3 lệnh rồi. Thông thường, những người đã ở tù 3 “lệnh”, sẽ dễ dàng được cứu xét hơn. Như tôi đã nói, mặc dù đây chỉ là thứ hy vọng mong manh, nhưng con người sống phải có cái gì để hy vọng, nếu không còn hy vọng thì còn gì là cuộc sống? Tâm trạng tôi lúc đó cũng như người mơ trúng số độc đắc. Mỗi tuần đều mua một tờ vé số để nuôi hy vọng có ngày trúng lô độc đắc, mặc dù biết là rất mong manh. Riêng tôi, giống như người mơ trúng số mà không có tiền mua vé số!

Bước qua năm thứ 11, tôi càng hy vọng nhiều hơn. Mặc dù lúc bấy giờ tôi vẫn còn ở khu kiên giam, nhưng ngay cả trong khu kiên giam và kỷ luật cũng có người bất thần được gọi tên ra về như trường hợp cha Phạm Hữu Nam, được gọi ra về từ trong nhà kỷ luật trại Thanh Cẩm! Biết đâu có ngày sẽ có tên mình? Niềm ước mơ thầm kín này thường ám ảnh tôi một cách mãnh liệt về đêm. Vì ban ngày còn phải đi lao động và biết bao nhiêu việc phải làm của kiếp tù, nên không có thì giờ để mơ mộng.

Sau vụ vượt ngục bất thành năm 1979, tôi bị đánh đập quá tàn nhẫn và sau đó bị cùm 3 năm làm cơ thể tôi quá suy nhược, nên lúc này, tôi không dám nghĩ tới chuyện vượt ngục nữa mà dành tất cả nghị lực cho những giấc mơ đẹp về viễn ảnh một ngày nào đó được trả tự do. Rất nhiều đêm, tôi nằm suy nghĩ và thử tưởng tượng xem lúc nghe có tên mình trong danh sách được tha, tôi sẽ mừng biết là chừng nào! Đây là một giấc mộng thật thích thú.

Để trả lời câu hỏi đó, tôi cố nhớ lại tất cả những dịp vui của đời mình để so sánh với tin vui được trả tự do như thế nào. Thật ra, đời tôi không có có nhiều dịp vui lớn ngoài những lần như thi đậu tiểu học, đậu trung học đệ nhất cấp, đậu tú tài, tốt nghiệp chương trình Đại Chủng viện và được thụ phong Linh mục. Những dịp đó cũng rất vui nhưng nếu được nghe tin trả tự do chắc là tôi sẽ mừng nhất!

Qua năm thứ 12, niềm hy vọng lại càng thúc bách tôi khi gần như toàn bộ số anh em trong nhóm 48 Quyết Tiến của tôi đã được tha về gần hết. Qua năm thứ 13, tôi càng nôn nóng hơn vì sau đợt tha dịp đầu năm Dương lịch, con số tù chính trị trại Thanh Cẩm chỉ còn lại không tới 100 người cùng với 10 người Trung quốc đã bị giam ở đây hơn 15 năm rồi. Trong lúc tôi hy vọng và chờ đợi niềm vui lớn thì bất thần có lệnh chuyển trại vào cuối tháng Giêng năm 1988. Tất cả tù chính trị, kể cả các anh Trung Quốc đều phải chuyển đi. Và tôi trở về trại Nam Hà này như đã nói ở trên!


45
Ngày Trở Về (2)

Nhận ra ý Chúa

Đ


êm đó, trong lúc tuyệt vọng, tôi ngồi trong màn cầu nguyện:“Lạy Chúa, xin cho con biết ý Chúa muốn gì nơi con. Con đã tù 13 năm và chịu bao nhiêu thứ cực hình. Các anh em khác chưa ai phải chịu cảnh khốn khổ như con, nhưng đã được về tất cả, riêng con phải tiếp tục chịu cảnh này. Xin cho con biết ý Chúa muốn gì nơi con.” Cầu nguyện xong, tôi ngồi yên lặng, và lúc đó tôi có cảm tưởng như nghe một tiếng nói bên tai:“Cha muốn con tiếp tục ở đây với những tù nhân khốn khổ còn lại, để con yêu thương, an ủi, giúp đỡ và chia xẻ đời con với họ. Và cuối cùng, cha muốn con được cùng chết với họ ở đây trong môi trường lao lý này.”

Thật là bất ngờ như một phép la! Tự nhiên một nỗi vui vô cùng lớn lao xâm chiếm tâm hồn tôi. Một nỗi vui mà suốt cả cuộc đời tôi chưa bao giờ có được. Niềm vui của người được chọn và trao cho một sứ mệnh mang tình yêu của Thiên Chúa đến cho mọi người, nhất là những người tù cùng khổ. Tôi coi đây là sự mặc khải riêng tư của Chúa đối với tôi. Bỗng chốc tôi thấy con người tôi khác hẳn. Tôi không còn mong được ra về, cho dù một chút cũng không. Từ nay nhà tù là nơi tôi sống, những tù nhân khốn khổ là anh em tôi để tôi yêu thương và an ủi họ, các cán bộ là những người tôi phải cảm hóa và chỉ cho họ con đường đức tin và hy vọng.

Qua sáng ngày, tôi cảm thấy mình đả trở nên một con người khác, một con người được giao sứ mạng làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa giữa anh em. Việc đầu tiên tôi làm trong buổi sáng hôm đó là ngồi xuống viết một lá thư cho chị tôi ở miền Nam. Trong suốt 13 năm qua chị tôi đã lo lắng cho tôi. Những năm về sau này, chị đã 2 lần lặn lội ra trại Thanh Cẩm thăm nuôi tôi. Nhưng vì lúc đó tôi đang bị cùm trong nhà kỷ luật, nên lần đầu chị không được gặp tôi và lần sau được gặp 15 phút trong chuyến đi từ khi rời nhà đến lúc trở về vừa đúng 33 ngày! Trong thơ tôi bảo chị từ nay đừng gửi quà cho tôi nữa, vì trong 13 năm qua gia đình chẳng còn gì. Tôi cho biết lúc này tôi rất hạnh phúc và đầy đủ, chị không phải lo nghĩ gì về tôi nữa.

Những ngày tiếp theo, tôi bắt đầu cuộc sống hạnh phúc trong tù. Trước hết, tôi để ý chọn một số anh em để cho thành hình một nhóm nhỏ mà tôi tạm gọi là “Cộng đoàn tình thương”. Mục đích của nhóm là an ủi và giúp đỡ những anh em khốn khổ, đặc biệt là những người không có thân nhân gia đình thăm nuôi tiếp tế. Lúc đó các anh em được tha về có để lại cho tôi khá nhiều thức ăn, đồ dùng, quần áo. Tôi giao cho anh em trong nhóm đem phân phát giúp những người thực sự cần giúp đỡ.

Lúc này nhóm anh em gần gũi với tôi nhất là những anh tù Trung Quốc, những người đã sống chung với tôi thật lâu trong nhà kỷ luật trại Thanh Cẩm. Giữa chúng tôi có mối liên hệ tình cảm sâu xa. Lợi dụng lúc sống chung, tôi đã học tiếng Quan Thoại với họ. Tôi đã cố gắng học không ngừng trong 2 năm và sau đó sống chung với mấy anh Trung Quốc nên có thể thực tập mỗi ngày và khi lên tới trại Nam Hà tôi đã nói rất thông thạo tiếng Quan Thoại. Tôi đã dùng ngôn ngữ này để dạy giáo lý cho họ. Trong những ngày nghỉ, tôi thường tới các buồng thăm viếng anh em, nhất là những người mới được Rửa tội trong tù. Riêng buồng 9 là buồng các vị tướng lãnh ở, không ai được vào ra tiếp xúc. Nhưng lúc bấy giờ qua sự liên lạc khéo léo với cán bộ trực trại, tôi lấy lý do xin qua học đàn Ghi-ta với bác Lê Minh Đảo, nhưng thật ra là để giúp về mặt tinh thần cho các tướng lãnh này.

Ngày 28 tháng Năm 1988, tức là hai tháng sau đợt tha rầm rộ vào dịp Tết, trại Nam Hà lại có biến cố lớn. Tất cả tù nhân miền Nam được đưa vô trại Hàm Tân trong Nam, chỉ có 3 người còn lọt sổ ở lại. Ngoài tôi ra còn có Linh mục Nguyễn Bình Tĩnh, Giáo phận Ban Mê Thuột, bị tình nghi dính líu tới nhóm Fulro và anh Nguyễn Đức Khuân bị bắt vì tham gia phong trào Phục Quốc. Lúc ở trại Thanh Cẩm anh sáng tác bản nhạc có đoạn gọi Hồ Chí Minh là con quỉ đỏ. Chẳng may bản nhạc bị bại lộ, anh bị đánh tơi bời và sau đó đưa lên cùm trên kỷ luật chung với tôi một thời gian khá lâu..

Nếu trại Nam Hà bắt đầu xác xơ kể từ sau đợt tha gần như “xóa sổ” hôm Tết, thì bây giờ trở nên tê liệt khi tù chính trị miền Nam không còn nữa. Tình thế bất ngờ tạo cho tôi thành một thứ “đại tư bản” trong tù. Số anh em được tha và số vừa chuyển về Nam để lại cho tôi tất cả “tài sản” của họ. Nếu trước đây có thời kỳ tôi không có cái quần để mặc, cái bát đựng thức ăn, cái lon Guigoz đựng nước uống thì bây giờ tôi có hàng mấy trăm cái hòm, thùng thau, chén bát, bao bị, áo quần, thuốc men v.v... không biết cơ man nào mà kể. Lúc này nhóm “Cộng đoàn tình thương” của chúng tôi cũng đã bắt đầu lớn mạnh và số đồ dùng anh em để lại thật đúng lúc. Anh em trong nhóm tôi thực tập cuộc sống chia sẻ với những người cùng khổ, một điều mà họ không bao giờ nghĩ là có thể có trong môi trường này..

Sau khi trơ trọi một mình ở lại, tôi càng nhận rõ được sứ mệnh của mình hơn. Lúc đó tôi được nhập vào đội chính trị miền Bắc với công tác đi đào thủy lợi. Trong buồng tôi cũng có những anh Trung Quốc, tuy không cùng đội nhưng sống chung buồng. Những anh Trung Quốc chỉ lao động bên trong trại, không được ra ngoài. Từ đó, hàng đêm tôi dạy giáo lý và dâng Thánh Lễ trong buồng..

Một hôm, tôi Rửa tội cho 2 anh Trung Quốc và quyết định dâng Lễ công khai. Tối hôm đó sau khi vào buồng, anh em nhộn nhịp cười nói, uống chè, hút thuốc lào như thường lệ. Đúng giờ, tôi đứng lên vỗ tay mấy tiếng làm mọi người ngỡ ngàng, sau đó tôi nói thật to để cả buồng cùng nghe:“Tôi xin anh em làm ơn giữ thinh lặng trong chốc lát, tôi sắp sửa Rửa tội cho hai người bạn, và đây là một nghi lễ tôn giáo rất quan trọng. Mặc dù anh em không phải là Thiên Chúa Giáo nhưng tôi cũng xin anh em tôn trọng nghi lễ này. Tôi cũng nói với các anh em là khỏi báo cáo với cán bộ vì việc tôi làm lễ công khai, ban giám thị đã biết”.

Điều rất lạ lùng, sau khi nghe tôi nói, cả buồng lặng yên và tôi cử hành nghi thức Rửa tội cho 2 anh Trung Quốc một cách thật trang nghiêm, cảm động.

Sau đó, tôi sống chung một buồng với 10 anh tù Trung Quốc. Những anh Trung Quốc này, trong những năm sau cùng ở Thanh Cẩm, đã được các Linh mục giúp rất nhiều, cả về tinh thần lẫn vật chất, nên họ rất thân thiện và gần gũi với các Linh mục. Riêng đối với cá nhân tôi, còn thân thiết với họ hơn vì đã sống chung với nhau mấy năm trong kỷ luật và hơn nữa tôi còn nói được tiếng của họ. Đó cũng là yếu tố nối kết tình thân. Khi lên trại Nam Hà và sống chung buồng, tôi dạy Giáo lý cho một số anh Trung Quốc, trong đó có anh Chu Vạn Hồi.

Cho tới lúc đó, Chu Vạn Hồi vẫn chưa nói được tiếng Việt, chỉ bặp bẹ ít câu. Những năm qua, khi sống gần các Linh mục, Chu Vạn Hồi đã tỏ ra thân ái, ngoan ngoãn và biến đổi như một con người mới. Anh ta thường hay tâm sự với tôi và hối hận vì các việc làm sai trái cướp bóc trước kia. Anh ta xin tôi giúp anh có niềm hy vọng để sống vì lúc đó anh còn quá trẻ, mới vừa ngoài ba mươi tuổi.

Ngay từ ở Thanh Cẩm và sau này lên Nam Ha, tôi đã dành nhiều thời giờ để hướng dẫn Chu Vạn Hồi và vài anh Trung Quốc khác. Tôi dùng nhiều gương các vị thánh cũng đã có thời lầm lạc như Thánh Phaolô để nói với anh là Thiên Chúa sẽ thương những con người lầm lạc biết hồi tâm thống hối. Sau thời gian tìm hiểu và thử thách, tôi Rửa tội cho Chu Vạn Hồi trong một nghi lễ khá long trọng tại trại tù Nam Hà. Anh chọn Tên Thánh là Phaolô, một vị Tông đồ của dân ngoại mà anh rất sùng kính. Tôi cũng nhận Hồi làm đứa con tinh thần của tôi và Hồi rất sung sướng về điều này.

Câu chuyện hãi hùng

Nếu việc Rửa tội cho Chu Vạn Hồi làm tôi cảm thấy hạnh phúc trong sứ mệnh Linh mục, thì thái độ rất lạ lùng của Hồi trong đêm vừa Rửa tội xong đó đã làm tôi ngạc nhiên. Khoảng 9 giờ tối hôm đó, Hồi tới chỗ tôi, nằm xuống bên cạnh, quay sang ôm lấy vai tôi, gục đầu vào ngực tôi và bắt đầu khóc nức nở. Cử chỉ này của Hồi làm tôi cảm động và ngạc nhiên. Tôi thắc mắc không hiểu nguyên nhân nào đã khiến một tên cướp trước kia bây giờ lai có thái độ như vậy? Hay là anh khóc vì quá vui mừng sau khi chịu phép Rửa tội? Tôi ngạc nhiên hỏi:
- Chu Vạn Hồi, con làm sao vậy? Nghe tôi hỏi, Hồi càng khóc to hơn. Nước mắt chảy ướt cả vai tôi và vai anh ta run rẩy trong bàn tay tôi. Biết là Hồi có điều gì cảm động mãnh liệt nên tôi không hỏi nữa nhưng dùng bàn tay phải xoa nhẹ trên đôi vai rất gầy của người bạn tù ngoại quốc vốn là tên cướp mà bây giờ đã tìm thấy con đường Đức tin và lại là con tinh thần của tôi. Sau cơn xúc động, Hồi ngước mặt lên nói trong nước mắt:
- Bố ơi! Có lần con đã sắp giết bố để ăn thịt rồi!

Nói xong được câu đó, Hồi khóc rống lên làm những anh em kế bên kinh ngạc, nhưng không ai biết chúng tôi nói gì. Hình như cảm thấy nhẹ người sau câu đó, Hồi trở nên khá bình tĩnh sau khi nước mắt đã chảy xuống nhiều. Tôi vẫn ôm vai nó hỏi:
- Chu Vạn Hồi, con nói gì? Sao lại giết bố? Bố không hiểu chuyện gì cả?

Hồi trả lời tôi cách rành rọt từng tiếng một. Lúc đó, tôi đã nói tiếng Quan Thoại rất sõi, nên hiểu hết những gì Hồi nói:
- Làm sao bố hiểu được chuyện này khi con và Lý Đức Nghĩa giữ kín trong lòng từ nhiều năm qua. Bây giờ Lưu Tùng chết rồi, chỉ còn lại con và Lý Đức Nghĩa. Con gọi nó lại đây để xin lỗi bố sau khi con kể lại đầu đuôi câu chuyện mà bố đã biết qua một phần.

Nói xong, Hồi bước xuống đi gọi Nghĩa nằm tận cuối buồng. Tôi ngồi một mình phân vân không hiểu Hồi muốn nói tới chuyện gì. Chuyện gì mà nó nói là tôi đã biết một phần. Chu Vạn Hồi làm tôi rất thắc mắc. Khi cả hai trở lại, Hồi nói:
- Lý Đức Nghĩa, anh ngồi xuống đây. Đêm nay tôi đã là con của Chúa, và người mà chúng ta vẫn gọi là Anh Lễ ngày trước bây giờ là bố của tôi. Tôi phải kể lại câu chuyện của buồng 5 ở kỷ luật Thanh Cẩm năm xưa để xin bố tôi tha thứ cho chúng mình.

Nghe nhắc tới đó, Nghĩa hiểu ngay câu chuyện nên có vẻ bối rối, nói nhỏ với Hồi bằng tiếng Quan Thoại mà chính nó đã dạy cho tôi:
- Anh Hồi à, chuyện đã qua từ lâu rồi còn nhắc lại làm gì?

- Mặc dù là đã lâu, nhưng tôi không an tâm khi chưa thú tội với người mà bây giờ tôi gọi là bố. Anh hãy ngồi xuống đây với tôi.

Nói xong, Hồi ngồi dịch sang một bên và kéo Nghĩa ngồi xuống. Cả ba người chúng tôi ngồi dựa lưng vào tường, tôi ngồi giữa hai người. Chu Vạn Hồi bắt đầu kể:
- Câu chuyện đã 8 năm qua rồi, nhưng con nhắc lại và tin chắc là bố còn nhớ. Bố còn nhớ cái đêm thằng 'lưu manh' bị tụi con đập trong buồng 5, nó la hét và cán bộ phải lên mang đi bệnh xá?

- Có, bố còn nhớ rõ lắm, chuyện đó xảy ra trong buồng 5 và bố ở buồng 4 kế bên nghe nó la hét thất thanh trong đêm và cán bộ lên đưa nó ra khỏi buồng trong đêm.
- Đúng rồi, như vậy là bố còn nhớ.

Tôi ngạc nhiên hỏi:
- Nhưng tại sao con muốn nhắc lại chuyện đó? Có gì đặc biệt không?
- Vì chuyện này có liên quan tới bố. Nếu lúc này bố không là bố của con thì con không nhắc lại làm gì, nhưng bây giờ bố là cha mẹ con, con không thể giữ trong lòng, nhưng phải nói ra, mặc dù đã nhiều năm qua rồi.

Tự nãy giờ Nghĩa chỉ ngồi yên cúi đầu, lúc biết là Hồi sẽ kể hết đầu đuôi câu chuyện, Nghĩa quay sang tôi, nói:
- Anh Lễ, tôi xin lỗi!

Tôi nói với cả hai:
- Tôi chẳng hiểu gì cả. Hãy kể tôi nghe đi!

Chu Vạn Hồi khoanh tay, mắt nhìn lên trần nhà và bắt đầu câu chuyện một cách chậm rãi, dĩ nhiên là bằng tiếng Quan Thoại:
- Lúc đó, con và Lý Đức Nghĩa vì quá tuyệt vọng và khổ sở đói khát sau hơn chục năm tù, và lúc nào, ở đâu cũng bị nhốt trong kỷ luật. Chúng con muốn chết, nhưng phải chết cách nào để cho mọi người biết là vì sự dã man của chế độ Cộng sản Việt Nam mà chúng con phải làm như vậy. Chúng con quyết định gây tiếng vang bằng cách giết và ăn thịt bất cứ một người tù Việt Nam nào bước vào buồng 5 lúc bấy giờ.

Chúng con đã định, sau khi giết chết, sẽ moi bộ đồ lòng ăn trước, vẫn để xác chết nằm đắp chăn, cán bộ điểm danh nhìn vào vẫn thấy đủ số và một người đang ngủ. Sau đó chúng con sẽ lóc thịt và ăn dần cho tới khi bị phát hiện. Dĩ nhiên là tụi con sẽ bị bắn, nhưng chúng con muốn dùng hành động man rợ này để tố cáo sự dã man của chế độ Cộng sản Việt Nam. Vì thực tình lúc đó chúng con không còn thiết sống nữa. Trong buồng có Lưu Tùng, nhưng dù sao nó cũng là người Trung Quốc nên chúng con không giết nó. Nó ốm yếu như một cây sậy, giết lúc nào cũng được! Chúng con chỉ lấy phần ăn của nó đi và chỉ cho nó ăn vừa đủ sống.

Hồi dừng lại, với tay lấy lon nước thấm giọng. Tôi ngồi yên lặng và rùng mình khi nghe Hồi chầm chậm kể lại câu chuyện mà tôi đã biết được một phần, vì chính tôi lúc đó đã can thiệp để cứu Lưu Tùng. Hồi tiếp:
- Chiều hôm đó, cán bộ đưa một thằng ‘lưu manh’ vào buồng con và cơ hội đã tới. Vừa xỏ chân vào cùm xong là nó lăn ra ngủ. Điều này càng dễ dàng cho chúng con thực hiện kế hoạch và chúng con nói tiếng Phổ thông với nhau nó chẳng hiểu gì. Nó bị cùm với Lưu Tùng thớt bên kia và nằm phía ngoài. Thớt bên này con nằm bên ngoài, Nghĩa nằm bên trong.

Chờ cho đèn điện trong buồng tắt, trong lúc nó đang ngủ mê, con bước một chân xuống sàn lấy cái ống bẩu nước tiểu và đổ hết nước tiểu ra. Cái ống bẩu đó dài và nặng, con dùng hết sức lực của hai cánh tay giáng một phát cực mạnh vào đầu nó. Con nghĩ là nó sẽ chết ngay vì cú đập đầu bất ngờ này, nhưng cái thằng nó khỏe. Ống bẩu vỡ tan tành, máu văng tung tóe nhưng nó không chết mà lại hét to lên: “Báo cáo cán bộ! Báo cáo cán bộ!” Lúc đó con chồm qua dùng hai tay bóp cổ nó như thế này... Con làm bố coi!

Anh ta dùng hai bàn tay bọc lấy phía sau cổ tôi. Hai ngón tay cái như thép của nó ấn nhẹ vào dưới cổ phía trước của tôi. Nó chỉ ấn nhẹ, mà tôi có cảm tưởng là cổ họng tôi đã vỡ ra. Tôi phải kéo tay nó. Hồi nói tiếp:
- Bố thấy đó, con chỉ ấn nhẹ mà bố không chịu nổi nhưng không hiểu sao đêm đó con dùng hết sức lực ấn xuống mà nó không chết. Rõ ràng là ý Chúa còn thương con, nếu nó chết thì con đâu có ngày hôm nay. Đây là điều lạ lùng. Nhưng còn một việc lạ lùng khác mà con biết là Chúa cứu con, đó là khi cán bộ nghe tiếng la hét chạy lên. Lúc đó, con chồm xuống đứng áng ngang cửa sổ cố ý che đèn bấm cán bộ rọi vào buồng quan sát. Bất thần có một cán bộ võ trang chọc thật mạnh lưỡi lê ở đầu súng vào buồng, đúng vào giữa thanh sắt song cửa sổ tóe lửa. Theo phản xạ, con né sang một bên, và lưỡi lê chệch sang phía bên kia. Đúng là phép lạ Chúa cứu con, vì nếu con né phía ngược lại thì lưỡi lê sẽ chọc đúng vào tim! Bây giờ con mới hiểu là Chúa đã cứu con.

Hồi dừng lại, khoanh tay trước ngực ngước mắt lên trong thái độ tạ ơn. Xong anh kể tiếp:
- Cán bộ mở cửa buồng đưa thằng ‘lưu manh’ đi xuống bệnh xá vì bị vỡ đầu máu me lênh láng. Khi cán bộ xuống rồi, con và Nghĩa bèn vắt máu từ cái chăn của nó được gần đầy bát máu. Tụi con dùng đóm tre đun bát máu thằng ‘lưu manh’ cho nóng lên và chia nhau uống! Lưu Tùng nhìn thấy cảnh đó run sợ nói không ra lời. Lúc bấy giờ đói quá con uống máu người mà không thấy tanh gì cả. Lạ một điều là uống máu người xong tụi con giống như bị nghiện, càng mong có dịp được uống nữa!

Tôi cảm thấy lạnh người khi nghe Chu Vạn Hồi và Lý Đức Nghĩa, hai người mà tôi rất thương mến trong những năm qua, lại là những kẻ đã từng uống máu người. Lúc này tôi mới lên tiếng:
- Lúc nãy, con nói là con định giết bố, lúc nào?
- Bố có nhớ lần đổi buồng ngay sau đó và cán bộ Thanh định đưa bố vào buồng 5 của con không?

Tôi nhớ rất rõ việc đó, nên nói:
- Có, nhưng bố không vào và xin cán bộ cho đi buồng khác vì bố và ông Khương mới đánh Lý Đức Nghĩa trước đó, nếu bố vào....

Hồi cướp lời tôi:
- Bố ơi! Đây là một phép lạ khác, phép lạ này còn lớn hơn nữa. Bố biết không, sau lần giết hụt anh tù hình sự mà không bị phát hiện, tụi con đã bàn lại kế hoạch và nạn nhân thứ hai không thể nào sống sót được. Chúng con đang mong đợi thì trưa hôm đó cán bộ đưa bố vào. Lúc bấy giờ, chúng con đã trở thành loài thú say máu người và sẽ giết để ăn thịt bất cứ người tù Việt Nam nào. Khi biết người đó là bố chúng con càng mừng hơn, vì giết và ăn thịt một người tù chính trị miền Nam có tên tuổi như bố thì cái chết của chúng con sẽ được thế giới biết tới nhiều hơn. Vả lại, Lý Đức Nghĩa rất mừng vì có dịp báo thù. Nó nói bố và ông Khương đánh nó hôm Tết vì nó cướp bánh chưng.

Lúc bố đứng ngoài sân, trong buồng con và Nghĩa đã bàn kế hoạch với nhau thật nhanh, không thể bàn khi bố vào buồng vì bố biết tiếng Phổ Thông. Chúng con cũng đe Lưu Tùng, nếu nó làm một ám hiệu gì với bố nó sẽ chết ngay. Nhưng sau đó bố lại xin cán bộ không vào buồng con và cán bộ đưa Phi Tàu thay vào đó! Nếu bố vào buồng 5, tụi con đã giết bố rồi!

Khi Phi Tàu vào nhập bọn, chúng con càng có sức mạnh và quyết tâm giết người ăn thịt hơn. Nhưng chưa có dịp ra tay thì một hôm bị thằng đại ‘‘lưu manh’’ Bình Thanh xông vào buồng đánh Phi Tàu và Nghĩa nằm liệt hàng tháng trời. Con cũng bị đánh, nhưng nhẹ hơn, và ngay chiều hôm đó bị đổi buồng mỗi đứa một nơi!

Hồi dừng lại, nắm lấy bàn tay tôi hôn và nói:
- Xin bố tha thứ cho con!

Nãy giờ, Nghĩa ngồi yên cúi đầu, lúc này mới lên tiếng lần thứ hai:
- Anh Lễ, tôi xin lỗi anh!

Tôi ngồi yên nhắm mắt và lạnh người khi hồi tưởng lại những tháng ngày đã qua trong 3 năm tôi lăn lộn trong kỷ luật Thanh Cẩm. Thật tôi không thể ngờ có những chuyện như vậy đã xảy ra.

Tôi nắm lấy tay hai người bạn tù Trung Quốc, những con người khốn cùng đã chia xẻ một phần cuộc đời của họ với tôi. Tôi nắm lấy bàn tay họ thật lâu và ngồi yên, để cho hai hàng nước mắt tôi tuôn rơi. Thấy tôi ngồi yên, nước mắt chảy dài, Chu Vạn Hồi quay sang ôm lấy tôi và cả hai cùng khóc. Lúc đó, Nghĩa cúi đầu, miệng lẩm bẩm mấy câu tiếng Phổ Thông, một ngôn ngữ mà chính nó đã dạy cho tôi:
- Lỳ cớ! Tui pủ xì!(Xin lỗi anh Lễ, xin lỗi!)

Chúa nói trong con

Hôm sau, tôi bị gọi lên gặp trại trưởng vì dâng Thánh Lễ công khai. Ông ta nạt nộ quát tháo, bảo tôi phải “câm miệng” lại, và còn dọa sẽ tống tôi vào cùm. Tôi trả lời rất khiêm tốn nhưng thẳng thắn:
- Báo cáo cán bộ, tôi là một Linh mục, thì cho dù ở đâu tôi cũng phải làm nhiệm vụ Linh mục của tôi và việc làm của tôi không ảnh hưởng gì tới sự an ninh của trại. Cán bộ khỏi phải dọa nạt tôi. Việc cùm kẹp đánh đập tôi đã chịu quá quen trong tù rồi. Bây giờ còn lại hai điều tôi xin với cán bộ. Một là bắn tôi chết, hai là để tôi làm nhiệm vụ rao giảng lời Chúa. Tôi phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời loài người.

Thấy không thể lay chuyển được tôi, họ giao tôi lại cho cán bộ quản giáo. Hôm sau, cán bộ quản giáo gọi tôi tới, trách móc tôi việc dâng Lễ và giảng dạy công khai làm ban giám thị khiển trách anh. Cuối cùng anh nói:
- Anh Lễ này, nếu anh không còn thương anh nữa thì xin anh thương tôi và vợ con tôi. Anh tiếp tục làm như thế, tôi là người gặp rắc rối trước tiên.

Tôi trả lời:
- Tôi cám ơn cán bộ đã thông cảm với tôi, cán bộ đã nói thế thì từ nay tôi sẽ không dâng Thánh Lễ công khai nữa, nhưng sẽ dâng Lễ âm thầm.

Các ngày Chúa Nhật và ngày nghỉ, nhóm chúng tôi ngồi quây quần ngoài sân và chia sẻ Lời Chúa với nhau. Lúc đầu, nhóm chỉ có những anh Trung Quốc nên tôi dùng tiếng Quan Thoại trong việc này, về sau có những người Việt nên tôi phải dùng hai thứ tiếng. Nhóm của chúng tôi càng ngày càng có nhiều người tham gia. Tôi dạy giáo lý và chuẩn bị Rửa tội cho 3 người trong thời gian sắp tới.

Lúc đó, đội của tôi do một anh thanh niên người Dân Tộc làm đội trưởng. Cũng nên biết trong tù chúng tôi gọi tất cả những người không phải là người Kinh bằng một tên chung là người “Dân Tộc”, ý nói là dân tộc thiểu số. Có thể họ mà người Mường, người Mán, người Thượng, người Nùng... Công việc của đội chúng tôi là đào kinh dẫn nước vùng đầm lầy chung quanh trại Nam Hà để cố biến vùng này thành khu vực có thể canh tác được. Một thời gian sau, cán bộ chỉ định tôi thay thế anh người Dân Tộc làm đội trưởng vì anh này viết chữ không rành! Chính trong thời gian này, khi không còn những tù chính trị miền Nam, tôi có dịp tiếp xúc nhiều với những cán bộ có phần hành chuyên môn trong trại.

Đội khai thác đá

Đội tôi làm thủy lợi một thời gian thì chuyển qua khai thác đá để bán cho các hợp tác xã xây dựng các nơi, nhất là ở Hà Nội. Trại Nam Hà nằm trong một thung lũng, chung quanh núi non bao bọc. Con đường từ Phủ Lý vào trại hai bên là núi đá cao, và đội chúng tôi khai thác đá trong các dãy núi cao lởm chởm này. Đánh đá là một công việc nặng nhọc và đầy nguy hiểm. Tôi nghe kể lại trước đây có mấy tù nhân đã bỏ mạng hoặc thương tật khi làm công việc này. Vì thế, khi lãnh trách nhiệm cho đội đánh mìn khai thác đá, tôi đã phải hết sức cẩn thận để bảo vệ cho anh em. Công việc của đội chúng tôi gồm các khâu như sau:
1. Chọn địa điểm đánh mìn: Việc này do chính tôi lựa chọn. Tôi phải tìm chỗ nào cho nổ mìn để có nhiều đá vỡ ra từ nhiều góc cạnh khác nhau, nhưng phải là nơi thuận tiện để người châm ngòi nổ có thể chạy nấp được.

2. Đục lỗ vào đá để nhét thuốc nổ: Mỗi ngày tôi chọn từ 8 tới 10 chỗ tùy theo số người lao động trong đội. Sau đó tôi phân công từng đôi một để họ đục lỗ trong đá bằng cái búa nặng chừng 1 ký lô và một cây sắt đầu dẹp, gọi là cây “choàng”. Một người cầm búa, một người cầm choàng. Làm sao trong ngày mỗi cặp phải đục một lỗ sâu 1 thước vào trong đá.

3. Nhét thuốc nổ và châm mìn: Đây là công việc nhẹ nhàng nhất nhưng lại là công việc nguy hiểm nhất. Tôi chọn một anh tù lanh lẹ và tháo vát làm công việc này. Trong khi cả đội lao động vất vả thì anh này lo dọn đường trên núi để chạy tới chỗ nấp an toàn sau khi châm mìn. Buổi chiều, sau khi các lỗ đục xong, anh lo việc nhồi thuốc nổ vào lỗ và phân chia dây cháy chậm tùy theo số lỗ và khoảng cách giữa các lỗ mìn cho hợp lý. Vì tiêu chuẩn dây cháy chậm chỉ có chừng ấy, anh phải phân ra để đốt và bảo đảm quả mìn đầu tiên không nổ trước khi anh chạy vào chỗ nấp đã chuẩn bị sẵn. Có trường hợp anh tù bị nổ banh thây trước khi chạy tới chỗ nấp vì chia dây cháy chậm không hợp lý.

4. Khâu dọn đá: Sau khi nổ mìn làm vỡ ra các tảng đá thật to, một nhóm tù sẽ lên vần cho rơi xuống bãi và dùng búa tạ 5 ký đập cho vỡ ra thành những tảng đá nhỏ bằng quả dưa.

5. Khâu vác đá: Sau khi đá được đập ra thành cỡ vừa phải, những anh tù vác đá chất thành đống hình chữ nhật để đo thành từng khối giao cho các xe tải của hợp tác xã.

Phần tôi, trong vai trò đội trưởng, có nhiệm vụ phân công cho anh em và theo dõi quan sát, đốc thúc anh em làm việc, cũng như cố gắng đừng để tai nạn xảy ra. Chính tôi là người quyết định giờ cho nổ mìn, nên trước đó tôi và anh đội phó ra đường cái gần bên báo hiệu cho xe cộ và người đi bộ. Mỗi ngày chúng tôi cho nổ mìn buổi chiều trước khi các xe tải lấy đá và chừng một tiếng đồng hồ trước khi thu quân. Sau khi nổ mìn xong, toán dọn đá phải lên lăn những tảng đá to xuống để sáng ngày đội có việc làm. Trong thời gian tôi làm đội trưởng, mọi việc diễn tiến tốt đẹp, không xảy ra một tai nạn nào. Chỉ có một lần duy nhất bị trục trặc và gây ra sự cãi vã gay gắt giữa cán bộ quản giáo và tôi.

Chiều hôm ấy, chúng tôi châm 10 lỗ mìn, nhưng chỉ nổ 9 tiếng và một quả bị lép. Đây là điều chúng tôi e ngại nhất, vì quả mìn lép có thể sẽ thúi luôn, hoặc có thể nổ lại bất cứ lúc nào, nhất là khi có sự chuyển động gần đó. Sau khi mìn nổ một lúc, cán bộ bảo tôi cho toán dọn đá lên. Tôi trả lời là còn một quả chưa nổ, nếu đội lên lúc này rất nguy hiểm, hẳn đợi lúc nữa.

Khoảng chừng 15 phút sau, cán bộ quản giáo lại giục tôi cho đội lên dọn đá, tôi cũng nói chưa an toàn, vả lại chỉ còn nửa giờ nữa là thu quân nên tôi xin cho đội ngồi nghỉ sáng mai hãy dọn đá. Cán bộ không nghe, cho là tôi muốn chống đối, anh nói rằng làm như thế đội sẽ không đạt được mức khoán của ban giám thị. Tôi trả lời đây là sự trục trặc ngoài ý muốn, không phải vì đội lười biếng hoặc chống đối lao động. Mấy anh tù trong đội xanh mặt ngồi theo dõi cuộc cãi vã. Cuối cùng, cán bộ dọa sẽ đưa tôi lên ban giám thị, cho là tôi cãi lệnh cán bộ và có ý chống đối lao động. Dọa nạt tôi xong, anh ta trực tiếp ra lệnh cho đội lên dọn đá. Trong khi các anh tù còn đang do dự chưa biết nghe ai, tôi tới bên cán bộ nói thật bình tĩnh:
- Báo cáo cán bộ, trước khi cán bộ trực tiếp ra lệnh cho đội, xin hãy cách chức đội trưởng của tôi. Nếu không tôi vẫn không đồng ý cho đội lên núi.

Trong khi anh ta ngần ngừ và giận tím gan, nhưng không biết trả lời sao thì tôi nói thêm:
- Nếu đội lên mà quả mìn lép phát nổ làm chết người, ai chịu trách nhiệm?

Trong khi anh cán bộ trẻ tuổi nhưng rất hung hăng này định phản công, tôi đành phải chưng “kinh thánh” của họ ra, tôi nói tiếp:
- Tôi còn nhớ bác Hồ có nói ‘Con người vốn quý’. Trong trường hợp này mạng sống con người phải quý hơn chỉ tiêu làm đá. Nếu cán bộ cho câu nói của bác Hồ là sai thì xin ký tên vào đây, rồi tôi cho đội lên!

Nói xong, tôi đưa cuốn sổ ghi công của đội và cây bút. Nhưng anh đã bỏ đi. Tôi cho đội ngồi nghỉ cho tới giờ thâu quân. Trong thời gian làm đội trưởng, tôi tìm hết cách để bảo vệ anh em trong đội, vì tôi nghĩ nếu tù mà không thương tù thì đợi ai vào đây thương mình?

Biểu lộ tình người

Đi lao động một thời gian, tôi bị một trận kiết lỵ thập tử nhất sinh. Cũng may có thuốc anh em vô Nam để lại nên tôi qua khỏi nhưng còn yếu chưa có thể theo đội đi lao động. Lúc đó cha Hiểu là đội phó thay tôi coi đội, còn tôi nghỉ ở nhà lo giúp anh trực sinh buồng làm vệ sinh khu vực chung quanh. Một buổi sáng rảnh rỗi, tôi ngồi trong nhà ăn, đọc tác phẩm “Chiến tranh và Hòa Bình” của Léon Tolstoi. Bộ sách giá trị này của một người bạn vô Nam để lại cho tôi.

Trong khi đang đọc thì Trung úy T., Sĩ quan an ninh của trại bước vào. Sẵn có óc cầu tiến và thích tìm hiểu, anh ta ngồi xuống với tôi và nói về tác phẩm này vì anh cũng đã đọc qua. Sau đó chúng tôi bàn về những tác phẩm hay mà anh ta đã đọc hoặc muốn đọc. Phần nhiều những sách anh nói tới, tôi đều đọc qua và chúng tôi bàn với nhau về chuyện văn chương rất tương đắc. Điều tôi nhận xét đầu tiên về người cán bộ này là anh thích văn chương, đọc sách nhiều, thích tìm hiểu nhưng chưa “tiêu hóa” được, đúng hơn là anh không đủ trình độ tiêu hóa những tư tưởng trong các tác phẩm anh đã đọc.

Sau lần nói chuyện, thỉnh thoảng anh lại vào chỗ tôi chơi và câu chuyện thường là xoay quanh những vấn đề trong một vài quyển sách mà anh đọc. Chúng tôi cùng bàn với nhau rất tương đắc. Anh đọc khá nhiều loại sách của các tác giả Tây phương và cả Tam Quốc Chí, Thủy Hử và nhiều sách khác nữa.

Thời gian sau, tôi khỏe lại và theo đội ra ngoài lao động nên ít khi gặp lại người cán bộ an ninh thích tìm hiểu về sách vở này. Một hôm, anh gọi tôi lên làm việc. Cũng nên biết qua, cán bộ an ninh trong trại quyền hạn rất lớn và khi gọi ai đi “làm việc” thì hiểu là người đó không phải đi lao động. Sau khi xuất trại lao động xong, anh cho một cán bộ vào đưa tôi ra văn phòng của anh, nằm khá xa bên ngoài cổng trại.

Khi tôi bước vào, anh đón tôi bằng một nụ cười, mặc dù đó không phải là nụ cười hoàn toàn thân ái, nhưng cũng không phải là nụ cười giả tạo. Phải nói là nụ cười của hai người đã có những lần nói chuyện với nhau về một vấn đề không nằm trong phạm vi giữa cán bộ và tù nhân, đó là vấn đề văn chương. Hôm đó, anh mặc quần màu vàng của công an, áo sơ mi trắng ngắn tay. Phòng làm việc này khá nhỏ và đơn sơ, chỉ có một tủ nhỏ có lẽ chứa hồ sơ, một cái bàn nhỏ bên trên có bộ chén trà và bao thuốc lá thơm. Bên cạnh bao thuốc lá có một bìa đựng hồ sơ mà tôi đoán là hồ sơ của tôi.

Từ khi về lại trại Nam Hà tới giờ đã 5 tháng, nhưng tôi chưa bao giờ được gọi đi làm việc. Thật ra, cũng chẳng còn gì để mà họ khai thác. Những gì đã xảy ra trong 13 năm qua, họ đã biết quá rõ về tôi. Vả lại lúc này gần như tất cả những người tù miền Nam đã được về hết rồi, còn khai thác gì nơi tôi nữa. Nghĩ như vậy nên tôi rất bình thản, và nhất là tôi đã nhiều lần tiếp xúc với người cán bộ an ninh của trại này rồi. Sau khi pha trà và mời thuốc tôi một cách khá thân mật, anh ta nhẹ nhàng bảo tôi là những lần trước nói chuyện với tôi, anh thấy rất thích và hôm nay muốn để tôi ở nhà để nói chuyện tiếp.

Lối mở đầu câu chuyện của anh làm bầu khí giữa hai người trở nên nhẹ nhàng và tự nhiên. Chúng tôi ngồi uống trà nói chuyện. Phần đầu câu chuyện liên quan tới sách vở, sau đó bàn qua về các trào lưu tư tưởng Âu Châu. Anh hỏi tôi về ngày tàn của đế quốc La Mã, về cuộc cách mạng Pháp năm 1789, những điều này anh có đọc nhưng không hiểu hết. Sau một lúc nói chuyện rất tự nhiên, anh hạ giọng hỏi tôi:
- Anh Lễ, một phần nào anh đã hiểu tôi, vậy tôi muốn nghe anh nói thật ý nghĩ của mình. Anh nghĩ thế nào về chủ nghĩa cộng sản?

Câu hỏi này của người Sĩ quan an ninh của trại làm tôi hơi đắn đo. Chưa bao giờ tôi gặp trường hợp như vậy cả. Anh ta nói đúng, một phần nào tôi đã hiểu được tư tưởng của người cán bộ có cái nhìn phóng khoáng này. Suy nghĩ một lúc, tôi nói rất thân ái:
- Ông T. à, tôi không nghĩ là ông thăm dò tư tưởng tôi.

Anh ta cười nhẹ, một cái cười có vẽ khổ tâm vì người đối thoại chưa tin nơi sự thành thật của mình, trong khi đã giãi bày cặn kẽ. Anh trả lời:
- Anh Lễ, tôi đã đọc hồ sơ anh thật kỹ, và chính cũng vì hiểu anh nên tôi mời anh lên để nói chuyện riêng tư. Tôi còn phải thăm dò anh làm gì nữa.

Nói xong, anh ta lật bề kia của bìa đựng hồ sơ của tôi, cho tôi thấy hàng chữ nằm ngang:“Thành phần không thể cải tạo được”, đóng bằng nét mực đen. Đó là lần đầu tiên tôi được nhìn thấy cái bìa hồ sơ cá nhân của tôi. Tôi buồn bã đáp lời:
- Ông T. à! Ông hỏi thì tôi phải nói, cho dù sau đó ông có cùm tôi, tôi cũng vẫn nói.

Tôi dừng lại một chập rồi nói tiếp:
- Mà nói cho cùng, tôi đã quen với cảnh bị cùm rồi, còn gì phải sợ nữa! Tôi nói thật lòng, tôi vẫn nghĩ là chế độ cộng sản không thể tồn tại được ông ạ!

Nói xong, tôi nhìn cán bộ T... Anh ngồi yên, gật đầu nhè nhẹ và hỏi:
- Anh căn cứ vào đâu mà nghĩ như thế?
- Câu hỏi của ông quá rộng, tôi không thể kể hết nguyên nhân. Nhưng chỉ nguyên một việc chủ nghĩa cộng-sản chủ trương đi ngược lại với bản chất tự nhiên của con người là nhu cầu chiếm hữu cũng đủ nói lên điều tôi khẳng định. Quyền tư hữu là một quyền căn bản thiết thân của con người, nó đi liền với bản năng của con người. Ai cố gắng tước bỏ điều đó là chống lại với khuynh hướng tự nhiên, mà hễ điều gì đi ngược lại với khuynh hướng tự nhiên thì không thể nào tồn tại được. Thực tế, quyền tư hữu con người có bị tước đoạt được hay không, ông là một đảng viên, ông hiểu rõ hơn tôi!

Anh ta ngồi trầm ngâm sau câu trả lời khá dài của tôi. Một lúc sau anh ta nói, nói thật nhỏ chỉ vừa đủ hai người nghe:
- Anh Lễ, anh hãy giữ suy nghĩ ấy trong lòng và đừng nói ra, không có lợi. Tôi cũng có suy nghĩ như anh. Nhưng anh biết hoàn cảnh tôi, tôi sinh ra và lớn lên trong chế độ. Anh Lễ, tôi quý anh, nên tôi thành thật khuyên anh là khi nào được về anh hãy tìm cách ra khỏi nước mà sống. Phần tôi, không làm gì khác hơn được. Vả lại, còn miếng cơm manh áo của gia đình vợ con tôi nữa!

Nghe anh nói, tôi rất cảm động. Vô tình tôi định cầm lấy bàn tay anh, nhưng chợt nhớ lại dù sao cũng còn bức tường ngăn cách giữa hai người mà lúc này chưa có thể vượt qua được, nên tôi dừng tay lại. Trong thâm tâm, tôi quý mến người cán bộ này hết sức và thương cho hoàn cảnh của anh. Từ đó, chúng tôi rất quý nhau. Bên ngoài chúng tôi bị hoàn cảnh ngăn cách nhưng bên trong chúng tôi đã coi nhau như bạn. Đúng hơn, anh ta coi tôi như một người anh.

(tiếp theo) » 46 47






^ TRỞ LÊN ^
» TRANG CHỦ


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét