BAO NỖI TANG THƯƠNG 2

TRANG  QUYỀN DÂN                        ★
DĨ ĐỨC VI TIÊN - THỨ CHI DÂN CHỦ - DÂN QUYỀN TỐI THƯỢNG - NHIÊN HẬU PHÚ CƯỜNG
Việt Nam không có Nhân Quyền - Nên ta phải lấy Quyền Dân để đòi
GOD! PLEASE HELP US STOP THE INVASION OF CHINA AND END THE COMMUNIST DICTATORSHIPS OF VIETNAM
Tổ quốc lâm nguy, Việt cộng đè, Trung cẩu lấn - Kề vai sát cánh, đồng tâm chung sức cứu non sông
Hồi ký
BAO NỖI TANG THƯƠNG

Cư sĩ TÂM NGUYỆN (TRÍ LỰC)

» PHẦN 1   » PHẦN 2   » PHẦN 3   » PHẦN 4

Xem trước trọn bộ tại đây: » BAO NỖI TANG THƯƠNG

❏ Tái đăng ngày: 10/08/2017 (trang trước bị sập)

PHẦN 2
11. Trước vành móng ngựa

T

rung tuần tháng 3 năm 1995, tôi được thoát khỏi cảnh bịt bùng ở khu B bên trong, cán bộ chuyển tôi ra khu A, ở chung với giáo sư Phạm Tường, mỗi ngày được tắm nắng vài tiếng đồng hồ, tương đối thoải mái hơn.

Giáo sư Phạm Tường là phó Chủ tịch Phong trào Thống nhất Dân tộc và Xây dựng Dân chủ, người sáng lập là cố giáo sư Nguyễn Ngọc Huy. Hiện nay, chủ tịch phong trào là giáo sư Nguyễn Ðinh Huy, cũng bị bắt giam ở đây. Phong trào dự định tổ chức một buổi hội thảo về kinh tế Việt Nam tại khách sạn Metropol, Sài Gòn, ban tổ chức đã gửi đơn xin phép chính quyền hẳn hoi. Thế nhưng, khoảng giữa tháng 7 năm 1993, nhiều người trong phong trào bị bắt, quy tội “Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân’’. Nay bọn cộng sản không còn dùng cụm từ “Âm mưu lật đổ chính quyền’’ như trước đây nữa, có lẽ vì chúng bị phản bác, âm mưu tức chỉ mới ngấm ngầm, nhen nhúm, nên không thể kết tội người ta mà bỏ tù được.

Thời chế độ cũ, Phạm Tường tốt nghiệp đại học Chính trị kinh doanh Ðà Lạt, anh ấy là người hiếu học, và cũng là một nhà thơ. Tôi bày cho anh thêm kiến thức chữ Hán, dùng phấn viết lên cửa phòng giam, trích các đoạn văn hay từ Quy Sơn cảnh sách mà tôi đã thuộc làu từ hồi nhỏ. Anh ấy lại giảng giải cho tôi một số kiến thức về chính trị, xã hội…, chúng tôi kết bạn vong niên, hằng ngày chuyện trò tâm đắc.

Thượng tuần tháng 8 năm 1995, vụ án Nguyễn Ðình Huy được đưa ra xét xử, tất cả các vị trong Phong trào Thống nhất Dân tộc và Xây dựng Dân chủ đều được chuyển sang khám đường Chí Hòa, đôi bạn chúng tôi tạm chia tay.

Ngày 15 tháng 8 năm 1995, nhà cầm quyền cộng sản đưa vụ án Phật giáo ra tòa xét xử. Ðây là lần thứ ba chúng tôi nhận quyết định xét xử của tòa án. Hai lần trước, khoảng tháng 6 hay tháng 7 năm 1995, thời điểm Tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton tuyên bố bình thường hóa quan hệ với Việt Nam, điều mà chính quyền cộng sản mong mỏi suốt hai chục năm qua, có lẽ đây là một trong những nguyên nhân khiến tòa án tạm hoãn xét xử để kiếm chác điểm tốt về nhân quyền.

Hơn nửa tháng nay, Thượng tọa Thích Không Tánh và Thích Nhật Ban tuyệt thực để phản đối phiên tòa phi lý này, sức khỏe quý thầy đã đến mức suy yếu. Trước hôm xử, công an trại giam răn đe chúng tôi, nếu ngày mai không chấp hành trát lệnh tòa án, thì họ sẽ thi hành biện pháp cưỡng chế. Nguyên do có lẽ thầy Thích Nhật Ban luôn luôn giữ thái độ bất hợp tác. Từ khi bước chân vào tù, thầy không chịu đến phòng cung để điều tra viên thẩm vấn. Thậm chí những lúc các cơ quan tố tụng tống đạt kết luận điều tra, cáo trạng, quyết định đưa vụ án ra xét xử…, thầy cũng không bao giờ ký nhận.

Tờ mờ sáng hôm ấy, đội công an vũ trang trại giam đưa chúng tôi lên xe bịt bùng áp giải đến tòa án Nhân dân thành phố. Sân tòa vẫn còn vắng ngắt, các cửa phòng đóng kín. Tôi và thầy Nhật Thường đi cạnh nhau, hai người trao đổi chuyện trò. Vừa bước lên bậc thềm, bất chợt chúng tôi trông thấy Hòa thượng Thích Quảng Ðộ đang ngồi nghỉ ở hàng hiên, chung quanh có mấy gã công an đứng canh chừng. Thầy Nhật Thường và tôi quỳ xuống trước mặt ngài, đôi tay bị còng chắp ngang ngực, chúng tôi cúi đầu đỉnh lễ ngài sát đất với một niềm cảm xúc thiêng liêng. Nhìn hình ảnh đó, mấy người đứng gác bên cạnh tỏ vẻ cảm động.

Hòa thượng đỡ chúng tôi dậy, khi ấy thầy Không Tánh, thầy Nhật Ban và Phật tử Ðồng Ngọc cũng vừa mới đến, mọi người đứng hầu bên cạnh ngài để vấn an. Sau mấy lời thăm hỏi, Hòa thượng Thích Quảng Ðộ ân cần dặn bảo chúng tôi:

- Hôm nay, chính quyền cộng sản xét xử chúng ta, tôi có lời khuyên các vị không cần tranh luận trước tòa, thêm nữa, cũng chẳng nên chống án làm gì, việc làm của chúng ta hãy để cho lịch sử mai hậu phán xét.

Khoảng tám giờ, phiên tòa khai mạc, đông đảo Tăng Ni và Phật tử đến dự ngồi chật kín phòng xử, bên ngoài cũng tấp nập không kém, trong khi các lực lượng công an cảnh sát canh phòng nghiêm ngặt. Suốt phiên tòa, Hòa thượng Thích Quảng Ðộ trong phong thái từ tốn, chẳng cần tranh luận phải quấy mà chỉ giữ im lặng. Khi chủ tọa phiên tòa thẩm vấn về việc phục hoạt Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, nếu chúng tôi có lời biện minh thì bị cắt ngang ngay, chỉ được trả lời câu hỏi, rằng có hay không mà thôi.

Trong thời gian qua, Ủy ban Bảo vệ Quyền làm Người Việt Nam - ông Võ Văn Ái và nữ sĩ Ỷ Lan - đã làm hết sức mình, vận động các tổ chức bảo vệ nhân quyền trên thế giới, yêu cầu nhà cầm quyền cộng sản trả tự do cho chúng tôi. Ðuợc biết ông Chủ tịch Ủy ban Bảo vệ Quyền làm Người Việt Nam đã mời được các luật sư nước ngoài biện hộ cho phiên xử này, nhưng Hà Nội từ chối bằng cách không cấp chiếu khán nhập cảnh cho các vị này.

Công cuộc phục hồi Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất do nhị vị Hòa thượng Thích Huyền Quang và Thích Quảng Ðộ lãnh đạo, chúng tôi chỉ hành sử theo Công ước Quốc tế về các quyền Dân sự và Chính trị đã được Liên Hiệp Quốc công bố năm 1996, nhằm đòi hỏi tự do tôn giáo, đòi lại pháp lý sinh hoạt của Giáo hội Phật giáo truyền thống, mà nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam ngang nhiên chà đạp và tước đoạt một cách phi lý.

Chúng tôi không phá hoại chính sách đoàn kết như cáo trạng đã nêu, mà chính đảng Cộng sản đương quyền đang tâm phá hoại sự đoàn kết của Giáo hội chúng tôi. Vì Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất là Giáo hội dân lập, được hình thành do nguyện vọng của Tăng tín đồ Phật giáo, là một Giáo hội truyền thừa của chư vị Tổ sư trải qua các đời, nay bị chính quyền cộng sản đàn áp một cách thô bạo và nghiệt ngã, cho nên buộc lòng chúng tôi phải thành lập Tăng đoàn bảo vệ chánh pháp.

Ban Văn hóa từ thiện xã hội tổ chức cứu trợ nạn nhân lũ lụt, nhằm xoa dịu phần nào nỗi đau thương và mất mát của những người lâm cảnh màn trời chiếu đất, thể hiện tình dân tộc, nghĩa đồng bào; đúng với tinh thần máu chảy ruột mềm, lá rách đùm lá nát. Chúng tôi nào có lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của nhà nước, của tổ chức xã hội, hoặc của công dân như cáo trạng đã nêu, nhằm buộc tội chúng tôi. Hãy xét cho kỹ, dưới chế độ cộng sản độc tài toàn trị, thì đâu có tự do hay dân chủ để cho chúng tôi lợi dụng.

Khi chính quyền cộng sản bắt chúng tôi vào trại giam, tiến hành lập các thủ tục tố tụng như quyết định khởi tố vụ án, quyết định khởi tố bị can, lệnh tạm giữ, lệnh tạm giam v.v…, các cơ quan hữu quan đã ngang nhiên tước bỏ họ Thích trước hai chữ pháp tự của chúng tôi, phải chăng để lừa bịp dư luận, rằng chính quyền đang bắt giam và khởi tố những công dân bình thường, chứ không liên quan gì đến tôn giáo hay các nhà sư Phật giáo. Cách xưng gọi Ðặng Phúc Tuệ tức Quảng Ðộ, Phan Ngọc Ấn tức Không Tánh, Hồ Bửu Hoa tức Nhật Ban, Phạm Văn Tưởng tức Trí Lực đủ chứng tỏ điều lọc lừa ngang ngược ấy.

Trong thời gian bị lưu đày quản thúc tại xã Vũ Ðoài, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình (miền Bắc Việt Nam), Hòa thượng Thích Quảng Ðộ đã viết tập “Nhận định về những chính sách sai lầm tai hại của đảng Cộng sản Việt Nam đối với dân tộc và Phật giáo”, tập nhận định này đã gây chấn động và làm xúc cảm biết bao người. Bởi lẽ ấy, chính quyền cộng sản ngoài việc kết tội ngài là một trong những hàng lãnh đạo công cuộc phục hoạt Giáo hội, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân, chúng còn cho rằng, ngài đã xuyên tạc và bôi nhọ chế độ, nên đã dành cho ngài bản án năm năm tù hết sức phi lý bất công. Tòa cũng tuyên án thầy Thích Không Tánh chịu năm năm tù, vì chúng cho rằng, thầy có hành vi sai trái pháp luật ở mức độ nghiêm trọng và còn lôi kéo nhiều người khác tham gia. Thầy Thích Nhật Ban chịu bốn năm tù, thầy Nhật Thường chịu ba năm tù, Phật tử Ðồng Ngọc chịu hai năm tù treo và tòa kết án tôi ba mươi tháng tù. Ngoài bản án tù giam, chúng tôi còn bị quản chế năm năm sau khi mãn hạn tù. Thế là cảnh lao ngục cộng sản vẫn tiếp tục vây hãm chúng tôi.

Nhà thơ Phổ Đức đã làm bài thơ Cảm đề Trí Lực (trích hồi ký Một đời làm thơ, cuốn 5):

Cứu lụt giúp dân bị bắt tù,
Lái thuyền Bát nhã khéo công tu.
Liên Hoa chùa vẫn ngời trăng hạ,
Trí Lực sư còn rạng nắng thu.
Trí Thủ khai thơ hoa kết trái
Yên Linh hạ bút quả công phu.
Chợ đời ngơ ngác không nơi tựa!
Lều cỏ dịch kinh giữa hỏa mù.

Phổ Đức

Chùa Liên Hoa, tọa lạc tại ấp Tân Cang, xã Phước Tân, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai do Thích Trí Lực khai kiến. Khoảng năm 1984, chính quyền cộng sản mở chiến dịch trấn áp và khủng bố. Vin vào lý do hộ khẩu, các vị Tăng Ni nào không có hộ khẩu ở Sài Gòn đều bị trục xuất ra khỏi thành phố, hoặc bị buộc trở về quê quán. Thích Trí Lực từ thiền viện Vạn Hạnh (Sài Gòn) về đây tạo lập một ngôi chùa tranh vách đất giữa cảnh đồng không mông quạnh để cùng hàng chục chư Tăng tiếp tục tu học và hướng dẫn Phật tử. Năm 1990, Thích Trí Lực cung thỉnh chư tôn đức mở giới đàn Bồ tát tại gia và Thập thiện giới, có khoảng hơn một nghìn giới tử khắp các nơi về đây phát tâm thọ giới trong sự vây bủa và theo dõi chặt chẽ của chính quyền cộng sản. Nhờ Phật lực gia hộ, cuối cùng giới đàn truyền giới cho Phật tử cũng được thành tựu viên mãn.

Hòa thượng Thích Trí Thủ đề tặng Thích Trí Lực bài thơ trong mùa an cư kiết hạ năm 1981 tại tu viện Quảng Hương Già Lam:

Trí Lực năng tiêu vạn cổ sầu,
Thân vân tâm nguyệt nhất thời hưu.
Dục ly không hữu đoạn thường luận,
Khổ hải cuồng ba bát hoạt chu.


Tạm dịch:
Trí Lực hay tiêu khổ muôn đời,
Trăng tâm mây thể một thời thôi.
Muốn lìa luận có không thường đoạn,
Sóng cuồng biển khổ chống thuyền chơi.

Chiều hôm phiên tòa kết thúc, chuyến xe tù đưa chúng tôi vào khám đường Chí Hòa, một nhà tù nổi tiếng được xây dựng cách đây ngót năm chục năm, dưới thời quân phiệt Nhật đảo chính thực dân Pháp tại Việt Nam. Khám đường này được xây theo hình bát giác, gồm một tầng trệt và ba tầng lầu. Ở đây có nhiều khu, lối đi quanh co chẳng khác nào lạc vào bát quái trận đồ. Buồng giam tập thể thì mặt trước có chấn song, còn buồng giam cứu chỉ rộng chừng năm bảy mét vuông, không khí ngột ngạt, tối tăm bịt bùng.

Thầy Nhật Thường và tôi bị giam chung ở một buồng nhỏ; thầy Thích Không Tánh và Thích Nhật Ban thì bị giam chung ở buồng giam cùng dãy. Quý thầy làm đơn kháng án và vẫn tiếp tục tuyệt thực để phản đối phiên tòa giả trá vừa qua. Do sức khỏe sút kém đến mức kiệt quệ, nên thầy Thích Nhật Ban được đưa xuống trạm xá khám đường để theo dõi bệnh tình.

Thi sĩ Đoàn Yên Linh cảm tác bốn câu thơ trong buổi lễ đặt viên đá đầu tiên xây dựng chùa Liên Hoa vào năm 1988:

Từ trong giọt lệ giữa đời,
Mấy ai tìm được nụ cười Pháp Hoa.
Vui sao giữa chốn rừng xa,
Chợt bừng lên đóa Liên Hoa tuyệt vời!

12. Trại giam Z30A Xuân Lộc

Ngày 20 tháng 9 năm 1995, một toán công an vũ trang áp giải tôi và hai người khác từ khám đường Chí Hòa đến trại Z30A, huyện Xuân Lộc, tỉnh Ðồng Nai. Trại giam này tọa lạc gần ngọn núi Gia Rây (còn gọi là Gia Lào), cách ngã ba ông Ðồn khoảng chừng năm cây số. Chúng tôi bị tra chân vào cùm trên một chiếc xe tải, cửa đóng bịt bùng.

Ðến phân trại K2 khoảng mười hai giờ, chúng tôi vẫn phải ở trên xe chờ đến hơn một tiếng đồng hồ, rồi mới được tháo cùm chân để vào làm thủ tục nhập trại. Kể từ ngày bị bắt trong đợt đi cứu trợ đồng bào vào năm ngoái, hôm nay tôi mới được trông thấy vòm trời bao la cao rộng, cùng cảnh vật thiên nhiên. Dù đang mang thân phận kiếp sống tù đày, hoàn toàn mất tự do, nhưng khi nghĩ lại những tháng ngày bị cấm cố trong bốn bức tường vây kín, tối tăm ngột ngạt, thì giờ đây, tôi cảm thấy có chút gì đó thoải mái hơn.

Nhìn cảnh vật chung quanh làm tôi nhớ lại những năm về trước, có vài lần tôi đi theo đoàn Tăng Ni và Phật tử do Hòa thượng Thích Tâm Hướng tổ chức; chúng tôi đến trại này để thăm Hòa thượng Thích Ðức Nhuận - Cố vấn Viện Hóa Ðạo; quý Thượng tọa Thích Trí Siêu, Thích Tuệ Sỹ, Thích Nguyên Giác…cũng bị giam giữ ở đây.

Phân trại K2 có khoảng một nghìn phạm nhân, đủ mọi thành phần và tội trạng. Từ cổng chính đi vào là sân cỏ rộng, dùng làm nơi phạm nhân tập họp để xuất trại đi lao động và cũng là sân bóng đá. Kế sau sân cỏ là hội trường, hai bên là các khu giam giữ phạm nhân. Thường ngày, mọi người bị cưỡng bức lao động, làm đủ mọi thứ công việc. Có vài khu biệt giam nằm ở góc phía sau hội trường, hoàn toàn cách ly với các phạm nhân khác; như trường hợp bác sĩ Nguyễn Ðan Quế, ông Nguyễn Hữu Cầu và một số tù nhân chính trị khác đều bị giam riêng ở đây.

Một hôm nọ, tôi vào quán bán hàng trong trại để mua đồ, bất chợt có một thanh niên trạc chừng hai mươi tuổi đến chào tôi và tỏ ý xin giúp đỡ.

Nhìn gương mặt xanh xao hốc hác, tôi hỏi thăm mới biết người ấy vừa mới hết thời hạn thi hành kỷ luật trại giam. Anh ấy cho biết, mỗi ngày hai bữa, anh được phát cơm có chan sẵn nước muối, mặn hay nhạt cũng phải ráng nuốt vào miệng, bởi vì chẳng còn thức ăn nào khác. Tại buồng kỷ luật, ai cũng bị cùm một hoặc hai chân, tùy mức độ vi phạm. Ở đây một tháng, cán bộ trại giam chuyển tôi ra phân trại K1. Hầu hết những tù nhân chính trị và tôn giáo đều tập trung ở phân trại này, có khoảng gần hai trăm người tù chính trị trong tổng số chừng sáu trăm phạm nhân ở đây.

Ðược biết vừa qua, sau cuộc nổi dậy của tù nhân chính trị ở thung lũng tử thần, tức trại A20, Xuân Phước, tỉnh Phú Yên (miền Trung Việt Nam), cục quản lý trại giam V26 đã di chuyển một số chính trị phạm chủ chốt ra trại Ba Sao, huyện Phủ Lý, tỉnh Nam Hà (miền Bắc Việt nam), số còn lại được chuyển vào trại Z30A Xuân Lộc.

Năm 1996, bộ Nội vụ mở đợt học tập chính trị về đường lối chính sách của đảng Cộng sản và nhà nước. Kết thúc đợt học tập này, mỗi người phải viết một bản thu hoạch để nộp, nhưng thật sự là để chúng trắc nghiệm tư tưởng. Quý thầy Thích Trí Siêu (Lê Mạnh Thát), Thích Thiện Minh (Huỳnh Văn Ba), Phạm Trần Anh, Nguyễn Viết Huân (tu sĩ dòng Ðồng Công - Thiên Chúa Giáo), các vị chức sắc Cao Ðài, Hòa Hảo…và rất nhiều người khác đã mạnh dạn lên án chế độ độc tài đảng trị, đòi hỏi đảng Cộng sản đương quyền phải hủy bỏ điều 4 ghi trong Hiến pháp, để tiến tới một nền dân chủ đa nguyên.

Sau sự việc này, thầy Thích Trí Siêu là người đầu tiên bị chuyển vào phân trại K2, biệt giam ở khu vực cách ly. Số tù nhân chính trị có tư tưởng chống đối được thể hiện qua bản thu hoạch vừa rồi, thì sẵn sàng chờ đợi biện pháp xử lý của ban giám thị trại giam.

Một hôm nọ, đội chúng tôi đi lao động ở khu vực đồi Phượng Vĩ, trở về thì gặp cơn mưa lớn, ai nấy đều ướt sũng, quần áo dính đầy đất bùn đỏ. Về đến cổng trại, cả đội đang xếp hàng chờ kiểm tra để vào trại, bất chợt vài cán bộ có vũ trang gọi riêng thầy Thích Thiện Minh tách ra khỏi hàng. Mọi người ngơ ngác không hiểu chuyện gì sẽ xảy ra. Công an trại giam dẫn thầy lên một chiếc xe đậu sẵn gần đó, rồi rồ máy chở đi. Tôi vào buồng giam soạn hết đồ đạc của thầy, rồi giao cho cán bộ trực trại theo yêu cầu của họ. Sau này mọi người hỏi thăm mới biết thầy Thiện Minh bị đưa vào K2 biệt giam. Ðây là đòn trả đủa thứ hai của nhà cầm quyền cộng sản đối với những người bất đồng chính kiến tại trại giam Z30A sau vụ việc vừa qua.

Thầy Thích Thiện Minh thế danh Huỳnh Văn Ba xuất gia từ nhỏ, người ở tỉnh Minh Hải (Cà Mau), bản tính khí khái, không chịu khuất phục trước bạo quyền. Năm 1975, khi quân cộng sản miền Bắc cưỡng chiếm miền Nam Việt Nam, Ủy ban quân quản ban hành chính sách chiếm dụng các cơ sở tôn giáo, trong đó có nhiều chùa chiền thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, thầy khẳng khái lên tiếng phản đối. Chính quyền cộng sản bắt giam thầy Thích Thiện Minh rồi kết án tù chung thân với tội danh "Âm mưu lật đổ chính quyền".

Sau cuộc nổi dậy của số tù nhân chính trị tại thung lũng tử thần A20 Xuân Phước, thầy Thiện Minh là một trong những người chủ chốt, cùng với một số anh em khác tổ chức vượt trại. Sự việc bất thành, thầy bị tòa án Nhân dân tỉnh Phú Yên kết thêm một bản án chung thân nữa. Người tù chính trị kiên cường mang hai bản án chung thân ấy luôn luôn đứng về phía chính nghĩa, thẳng thắn lên tiếng khi gặp sự áp bức, bất công, phi lý của ban giám thị và cán bộ trại giam. Bởi vậy, thầy thường xuyên bị gán ép vi phạm nội quy và chịu cùm chân ở buồng biệt giam nhiều ngày, gọi là thi hành kỷ luật.

Chúng tôi thiết tha kêu gọi Tổ chức Ân xá Quốc tế, Liên Ðoàn Quốc tế Nhân quyền, Tổ chức Theo dõi Nhân quyền, Ủy ban Bảo vệ Quyền làm Người Việt Nam, cùng các tổ chức bảo vệ nhân quyền trên thế giới…, xin hãy vì công lý, bình đẳng, để gióng lên tiếng chuông cảnh tỉnh, đòi hỏi nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam hãy trả tự do cho các tù nhân vì lương thức, trong đó có thầy Thích Thiện Minh, bác sĩ Nguyễn Ðan Quế, giáo sư Nguyễn Ðinh Huy, v.v...

13. Kiếp lao ngục đọa đày

Gần một phần tư thế kỷ trôi qua, kể từ khi miền Nam Việt Nam rơi vào tay cộng sản, có ai tả xiết bao nỗi đắng cay đày ải mà hàng nghìn hàng vạn người phải gánh chịu trong chốn lao tù. Rộng ra nữa, chế độ độc tài đảng trị đè nặng lên kiếp sống người dân hai miền Nam Bắc. Chính sách sai lầm tai hại trong thời kỳ cải cách ruộng đất giữa thập niên 50 ở miền Bắc đã giết hại oan uổng bao nhiều người vô tội. Tám chục triệu con dân Lạc Việt phải chịu cảnh cơ cực lầm than bởi hơn hai triệu đảng viên đảng Cộng sản nắm quyền sinh sát trong tay.

Cái gọi là tập trung cải tạo sau tháng tư đen năm 1975, chính quyền cộng sản đã đày đọa bao nhiêu viên chức sĩ quan chế độ Việt Nam Cộng Hòa, các nhà lãnh đạo tôn giáo, nhân sĩ, trí thức…, cùng những người dám nói lên tiếng nói lương thức để đòi lại quyền con người và tự do dân chủ thực sự. Trong cảnh lao lung, có những người đã vùi chôn thân xác và mãi mãi ra đi.

Ðầu mùa hè năm 1996, tiết trời nóng bức, cỏ cây hoa lá đều nhuốm bụi hồng, một màu hồng của miền đất đỏ Xuân Lộc. Hầu hết số tù chính trị ở phân trại K1 đều bị cưỡng bức lao động, tất cả được điều động đào đất đổ nền móng xây dựng khu văn phòng làm việc của ban giám thị trại giam. Tính theo số người trong đội, mỗi người buộc phải hoàn thành một mét rưỡi khối đất mỗi ngày. Cứ hai người khiêng một trạc, đi đi lại lại, cố gắng làm xong chỉ tiêu trong ngày để về ngơi nghỉ. Ðội chúng tôi làm việc quần quật ròng rã hơn cả tháng trời, ai nấy đều bơ phờ mệt mỏi, chân tay rã rời, có người đã ngất xỉu ngay trên công trường. Mọi người chỉ biết ngậm đắng nuốt cay, đành lòng chấp nhận một kiếp tù đày.

Sau thời gian lao khổ ấy, tất cả phạm nhân toàn phân trại lại bị buộc phải đi lao động vào sáng chủ nhật hàng tuần mà không được nghỉ bù. Lẽ ra ngày này chúng tôi được nghỉ lao động theo quy chế trại giam. Mọi người tập trung vào công việc góp nhặt những tảng đá lớn nhỏ nằm rải rác trên các triền đồi phía sau chùa Lam Viên. Vào giờ nghỉ giải lao, được sự đồng ý của cán bộ, tôi vào chùa thắp nhang lễ Phật. Thế là ngót hai năm nay, tôi mới có nhân duyên được đỉnh lễ ngôi Tam Bảo. Nước mắt tự nhiên tuôn trào, tôi chạnh lòng nghĩ đến hai vị Hòa thượng Thích Huyền Quang và Thích Quảng Ðộ, tôi nhất tâm cầu nguyện quý ngài pháp thể khinh an, sớm thoát khỏi vòng lao lý và mong sao pháp nạn mà Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất đang gánh chịu sớm được giải trừ.

Công việc lao động sáng chủ nhật được vài tuần thì xảy ra sự chống đối của một số anh em tù chính trị vào cuối tháng 5 năm 1996. Các vị này chống lại việc cưỡng bức lao động bằng cách không chịu xuất trại. Cuộc cãi vã bột phát giữa sân trại chẳng khác nào một cuộc nổi dậy chưa từng có. Các bạn Nguyễn Văn Biên, Thái Phi Kích, Nguyễn Văn Tựu, Lê Văn Thể, Nguyễn Văn Mười, Nguyễn Thanh Hồng, Nguyễn Viết Ðào, v.v… là trong số những người phản kháng ra mặt. Tuy nhiên, chỉ có Nguyễn Thanh Hồng và Nguyễn Viết Ðào nhận quyết định thi hành kỷ luật, hai anh bị đưa vào phân trại K2 và chịu cùm chân ở buồng kỷ luật.

Thế rồi, bản kiến nghị của gần hai trăm chính trị phạm toàn trại đòi cải thiện chế độ lao tù và chấm dứt việc cưỡng bức người già yếu lao động khổ sai được soạn thảo. Văn bản được lén chuyển ra ngoài an toàn, trân trọng gửi đến Ủy ban Bảo vệ Quyền làm Người Việt Nam ở Paris. Ông Võ Văn Ái đã công bố sự trạng này tại Hội trường Liên Hiệp Quốc gây chấn động dư luận quốc tế, các tổ chức bảo vệ quyền con người cùng lúc mạnh mẽ lên án Hà Nội vi phạm nhân quyền và đàn áp tù nhân chính trị tại Việt Nam.

Kết quả đưa đến sự việc là toàn bộ ban giám thị trại Z30A Xuân Lộc bị thuyên chuyển. Do đó, vòng đai an ninh kiểm soát chặt chẽ hơn trước nhiều, số tù chính trị lao động tự giác bị hạn chế. Thậm chí ngôi nhà lô của thầy Thích Không Tánh ở khu vườn điều bên ngoài cũng bị đốt cháy rụi vào lúc nửa đêm, mái tranh vách nứa trở thành một đống tro tàn. Có lẽ ngôi nhà này bị tình nghi là nơi trung chuyển tin tức và các văn bản ra ngoài.

Khu đất vườn phía tay trái nhìn từ cổng trại vào nay được khởi công xây dựng hai dãy nhà giam mới để giam giữ tù nhân chính trị, phòng ốc cũng rộng rãi và chỉnh trang hơn, có bể chứa nước được bơm từ giếng bên ngoài, nhất là mùa nắng hạn có nước dự trữ để dùng.

Cuối năm 1996, tôi được chuyển qua đội trồng rau xanh, sau đó lại được phân công dạy học cho một số anh em cần bổ túc văn hóa, cho đến ngày mãn án ba mươi tháng tù giam.

14. Án lệnh quản thúc
Ngày 13 tháng 2 năm 1997, cán bộ trực trại dẫn tôi vào văn phòng ban giám thị để làm thủ tục mãn án. Cầm tấm giấy chứng nhận chấp hành xong hình phạt tù, bên dưới có ghi thêm dòng chữ: “ Quản chế 5 năm sau khi mãn hạn tù, tước quyền bầu cử…’’, tôi thầm nghĩ rằng, mình sắp rời khỏi trại giam Xuân Lộc, gọi là được trả tự do, song thật sự là cuộc đời mình bắt đầu bước chân vào một nhà tù lớn. Nhà tù này tuy không có cửa khóa bịt bùng, bên ngoài không có hàng rào điện tử để báo động khi có người trốn trại, mà chính quyền cộng sản Việt Nam đã lấy nhà chùa biến thành nhà tù, như họ đã từng giam giữ Hòa thượng Thích Quảng Ðộ ở Vũ Ðoài, tỉnh Thái Bình; Hòa thượng Thích Huyền Quang ở chùa Hội Phước, tỉnh Quảng Ngãi; Thượng tọa Thích Liễu Minh ở một ngôi chùa làng hẻo lánh thuộc tỉnh Tiền Giang v.v… Nhà tù lớn này luôn luôn có công an ngoại tuyến rình rập, theo dõi; mỗi tháng phải đi trình diện, đi đâu xa thì phải xin phép, đủ chuyện trên đời. Ðang miên man nghĩ ngợi, chẳng mấy chốc tôi đã ra đến ngã ba ông Ðồn, rồi đón xe trở về thành phố.

Theo giấy ra trại, tôi về lại chùa Pháp Vân, đến trình diện công an phường 18, quận Tân Bình và tiếp tục thi hành bản án quản chế 5 năm.

Mặc dầu tôi đã gửi đơn yêu cầu được trở về lại chùa Liên Hoa, ấp Tân Cang, xã Phước Tân, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai; hoặc là chùa Hoa Nghiêm, thôn Ðại Ninh, xã Ninh Gia, huyện Ðức Trọng, tỉnh Lâm Ðồng; là hai nơi tôi trú trì trước đây, thế nhưng vẫn không được chính quyền giải quyết, cho nên tôi đành phải làm thủ tục tạm trú ở đây, có sự bảo lãnh của Hòa thượng trú trì Thích Thật Trí.

Một buổi sáng nọ, tôi có công việc phải rời chùa khoảng hai tiếng đồng hồ. Khi trở về thì thấy đồ đạc của mình bị vứt ra khỏi phòng, tôi hỏi các chú ở nhà thì được biết, họ chỉ làm theo lệnh của thầy Thích Phước Trí ở chùa Vạn Phước, người tạm thời trông coi ở đây. Trước tình cảnh này, nếu là một công dân được tự do, thì tôi đã trở về chùa cũ từ lâu. Ngặt nỗi, tôi là tù nhân đang thi hành án lệnh quản thúc của chính quyền, thì làm sao tôi có thể tự ý rời bỏ chỗ này để đi nơi khác khi chưa có lệnh của cơ quan công an thành phố. Tấn thối lưỡng nan, chưa biết phải tính thế nào, tôi bách bộ trước sân chùa.

Ðứng dưới bóng cây mai, tôi nghiêm trang nhìn nấm mộ cố Thượng tọa Thích Thanh Văn, cựu giám đốc trường Thanh niên phụng sự xã hội, bên cạnh những nấm mộ của nhiều cựu tác viên bất hạnh, đã bị Việt cộng ném lựu đạn gây tử thương trong lúc sinh hoạt và làm công tác ở đây vào khoảng thập niên 60. Bất chợt tôi nhớ lại và cất tiếng ngâm nga bài thơ thất ngôn tứ tuyệt của thiền sư Chánh Thống, hiệu Bích Phong, chùa Quy Thiện, Huế:

Do lai duật bạng cửu tương trì,
Ðể sự tang thương vị liễu kỳ.
Bán chẩm Hoàng lương kinh mộng hậu,
Tiền trần hồi thủ sự giai phi.


Tạm dịch:

Cò hến giằng co gẫm nực cười,
Bể dâu dồn dập mấy phen rồi. Kê vàng nửa gối bừng đôi mắt,
Còn mất hơn thua cũng chuyện đời.


Bỗng phía ngoài cổng chùa có tiếng xe gắn máy chạy vào, thì ra, công an phường 18 quận Tân Bình đến gửi giấy mời, rằng tôi phải có mặt tại trụ sở Ủy ban phường 18 ngay bây giờ để làm việc.

Tôi đến trụ sở Ủy ban nhân dân phường theo giấy mời, ông chủ tịch Mặt trận Tổ quốc phường tiếp tôi. Sau vài câu thăm hỏi xã giao, ông ấy chậm rãi đi đến bàn giấy lấy một xấp hồ sơ và tài liệu của Viện Hóa Ðạo - Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất - ông mang đến để trước mặt tôi rồi hỏi:

- Ðây là những tài liệu mang nội dung chống phá nhà nước, có phải của thầy cất giữ hay không?

Tôi thản nhiên hỏi lại:
- Thế cơ quan an ninh của các ông tịch thu các giấy tờ này ở đâu mà bảo rằng đó là của tôi?
- Sáng nay, thầy Phước Trí là người đang nộp đơn xin chúng tôi hợp thức hóa trú trì chùa Pháp Vân thay thế Hòa thượng Thích Thật Trí nay đã già yếu, thầy ấy tự động sai người mang những tài liệu giấy tờ này ra giao nộp chính quyền, bảo rằng những thứ này lấy ở trong kệ sách của thầy Trí Lực.

Nói xong, ông ấy bèn đi ra ngoài vì có ai chờ đợi việc gì đó nảy giờ.

Còn lại một mình trong phòng, tôi tập trung suy nghĩ sẽ đối phó sự việc này như thế nào? Bỗng nhiên, một viên công an phường bước vào, hình như ông ấy tỏ vẻ có thiện cảm với tôi. Ông ta nói:

- Thầy nên phủ nhận là hơn.

Tôi hỏi ngay:
- Ông nghĩ thế nào, tại sao thầy Phước Trí cố tình làm hại tôi như vậy?

- Cũng dễ hiểu thôi, thầy ấy muốn chùa Pháp Vân không dính dáng gì đến Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất để lấy điểm tốt với chính quyền, đó cũng chỉ là một cách lập công.

Rồi viên công an này còn cho tôi biết thêm, trong thời gian tôi ở tù, thì ngoài này thầy ấy đã lo quà cáp để vận động chính quyền địa phương không đồng ý cho tôi trở về chùa Pháp Vân sau khi mãn án tù, mà sẽ chuyển đi quản thúc ở một nơi khác.

Tôi cười và nói:
- Hèn gì ngày tôi đến trình diện, ông trưởng công an phường ngạc nhiên bảo rằng, sao tôi lại về đây? Tôi trình giấy ra trại và trả lời rằng, tôi đâu có biết, trong giấy ghi tôi về trình diện ở đâu, thì tôi phải đến trình diện ở đó.

Ông ấy mỉm cười thông cảm gật đầu chào tôi rồi đi ra. Một lát sau, ông Chủ tịch Mặt trận phường trở vào tiếp tục làm việc với tôi. Uống xong cốc nước, ông ấy chậm rãi nói:

- Sao, thầy vừa mới đi cải tạo về mà lại còn ngoan cố lưu giữ tài liệu chống phá cách mạng, như vậy là vi phạm pháp luật và có thể bị truy tố ra tòa.

- Tôi hoàn toàn phủ nhận. Tại sao các cơ quan an ninh không ra lệnh khám xét chỗ ở của tôi để lập biên bản thu giữ, gọi là biên bản phạm pháp quả tang rồi xử lý. Trong các tài liệu đó có chữ ký của tôi hay không? Có bút tích của tôi hay không? Nếu có thì tôi sẽ chịu trách nhiệm hình sự. Nhân đây, tôi cũng xin báo cho chính quyền biết, sáng nay, thừa dịp tôi đi vắng, thầy Phước Trí đã sai chúng điệu vứt hết đồ đạc và giấy má của tôi ra khỏi phòng, tôi sẽ làm đơn tường trình sự việc, yêu cầu chính quyền giải quyết cho tôi trở về chùa cũ của tôi.

Một lát sau, ông ấy bảo tôi ra về và hãy chờ ý kiến cấp trên.

Tôi trở về rồi vội vàng đi đến chùa Long Vĩnh, đường Lê Văn Sĩ, quận 3. Hôm nay là ngày giỗ cố Hòa thượng Thích Thiện Minh, ngày mà gần hai mươi năm trước, chính quyền cộng sản đã tra tấn ngài đến chết một cách đau thương trong ngục tù. Trang nghiêm trước di ảnh của ngài, tôi thắp hương tưởng niệm và chí thành đỉnh lễ Giác linh.

Mặc dù tôi đã làm đơn gửi đến bộ Công an ở Hà Nội trình bày sự việc, yêu cầu cơ quan thẩm quyền giải quyết tình trạng của tôi. Tôi mong ước được trở về chùa cũ hay một nơi nào đó để tiếp tục thi hành án lệnh quản thúc. Thế nhưng hoàn toàn vô vọng, chẳng thấy họ hồi âm. Theo pháp lý, tôi không thể nào tự ý rời bỏ nơi chỉ định cư trú khi chưa có ý kiến của cơ quan chủ quản là PA38, công an thành phố. Thế nên, suốt cả tháng trời, tôi đành phải trải chiếu gối ngủ ở hiên chùa, đêm đêm ngắm nhìn trăng sao đầy trời bao la cao rộng, nhiều lúc cũng gặp cảnh gió lộng mưa chan. Ðến thế là cùng, tôi trở thành một người tù không có buồng giam.

Sở dĩ tôi ghi lại sự việc này, một quá khứ dở khóc dở cười, pha lẫn chút oái oăm, không phải tôi có ý oán hờn trách móc ai, mà chính là tôi muốn nói lên bản chất của chế độ cộng sản. Bản chất ấy có thể sản sinh ra những con người đối xử với nhau một cách cạn tàu ráo máng: con tố cha, vợ tố chồng, anh tố em, trò tố thầy… Chủ nghĩa cộng sản vốn mang bản chất tựa hồ loài bọ ngựa, chúng có thể cấu xé, nhai nuốt hoặc tàn hại đồng loại mà không chút thương tâm. Làm sao mà trong tình đời nghĩa đạo với nhau, lại có những người nhẫn tâm đặt bút ký tên thỉnh nguyện, đề nghị chính quyền cộng sản đưa những người đồng hội đồng thuyền với mình phải chịu cảnh lưu đày biệt xứ, còn đâu là tình cốt nhục Linh Sơn? Làm sao mà hàng hậu bối có thể đi tố giác với thế tục quyền những việc làm chính đáng của thầy tổ mình, mà việc làm ấy đúng thật là đại nghĩa, vì sự sống còn của Giáo hội truyền thống, được truyền thừa bởi lịch đại Tổ sư?

15. Trở về quê cũ

Mấy tháng sau, tôi quyết định trở về chùa Linh Mụ mà chẳng cần báo với công an. Dù sao chăng nữa, tôi nghĩ rằng, đi đâu cũng không bằng trở về chùa thầy tổ của mình. Vả lại, chùa Linh Mụ nằm trong địa phận thôn An Ninh Hạ, xã Hương Long, huyện Hương Trà, là làng quê của tôi, chỉ cách chùa cánh đồng Trường thi và mấy lũy tre xanh. Qua khỏi cầu chợ Thông, băng ngang xóm Rào, mọi người đã trông thấy mấy tầng cao của ngọn tháp Phước Duyên vượt lên khỏi rặng dương liễu phía sau chùa. Ðêm khuya, hòa lẫn tiếng gà gáy sáng, tiếng chuông Linh Mụ vẳng nghe mồn một, dường như đó là chiếc đồng hồ báo thức cho dân làng, mọi người thức dậy sửa soạn gồng gánh ra đi cho kịp phiên chợ sớm, hoặc chuẩn bị cơm nước để ra đồng lo việc cày cấy ruộng nương. Có những đêm khuya, nhất là mùa đông giá lạnh, thỉnh thoảng chúng tôi lại ngủ quên nên trễ nải giờ giấc đánh chuông. Thế là sớm mai, khi quét lá sân bảo tháp, gặp một vài o lật đật quảy gánh đi ngang, mấy o toét miệng cười vừa mắng vốn chúng tôi về lỗi ngủ quên, làm cho họ phải chậm trễ buổi chợ.

Chuyến xe lửa Nam Bắc tạm dừng ở ga Huế. Sau những năm tháng tù đày, nay tôi mới có dịp trở lại cố hương, trong lòng cảm thấy bồi hồi. Không như những lần trước, tôi trở về chùa để hầu thăm ôn và quý thầy, nay ôn đã viên tịch, thầy Thích Trí Tựu tuy đã mãn án nhưng hiện vẫn còn bị quản thúc vô thời hạn ở chùa Tây Thiên, dù chẳng có án lệnh của tòa. Ngày thầy Thích Trí Tựu hết hạn tù ở trại Ba Sao, công an tỉnh Thừa Thiên - Huế mang xe ra tận miền Bắc đưa thẳng thầy về đây. Về phần quý thầy Thích Hải Tạng, Thích Hải Chánh, Thích Hải Thịnh thì nay công an mời, mốt ủy ban gọi, dằng dai dằng dói, sách nhiễu đủ điều.

Vì nhân duyên Phật sự, tôi xa cách Linh Mụ khá lâu, tuy vậy quý thầy và chúng điệu trong chùa luôn luôn hoan hỷ tiếp đón tôi tựa bát nước đầy. Các vị ấy xem tôi như một người anh hay người em đi xa, lâu lâu trở về thăm nhà, trọn vẹn đạo tình huynh đệ.

Thế rồi, chỉ ít hôm sau, lực lượng công an xã Hương Long, thành phố Huế gõ cửa chùa vào kiểm tra hộ khẩu giữa đêm hôm khuya khoắt. Chính thật là họ đang tìm tôi để bắt giữ hoặc trục xuất tôi ra khỏi đất Huế. Không những chùa Linh Mụ, mà cùng lúc, các chùa Diệu Ðế, Nam Phổ đều có công an đến kiểm tra. Hai ngôi chùa này do thầy Thích Giới Hương và Thích Trí Ðạo trú trì, hai vị ấy đều là pháp huynh của tôi. Công an suy đoán rằng, có thể tôi sẽ về tá túc ở đây.

Nhà ông cụ thân sinh tôi ở Tây Lộc, gần cửa Chánh tây, công an phường thường xuyên vào nhắc nhở, bao giờ tôi về thăm gia đình thì phải ra trụ sở công an phường báo ngay cho họ biết.

Lực lượng công an lùng sục tôi khắp nơi, không thể nào né tránh hoài, tôi lặng lẽ khăn gói ra đi, cho dù tôi cố nán lại ở quê nhà, thì cũng chẳng tìm ra một chỗ nào khả dĩ dung thân. Với tình cảnh như vậy, quả thật chính quyền cộng sản đã dồn ép tôi vào bước đường cùng!

Trên đường trở vào miền Nam, tôi ghé chùa Quang Phước, thị trấn Chợ Chùa, tỉnh Quảng Ngãi, để hầu thăm Hòa thượng Thích Huyền Quang đang bị quản thúc ở đây. Thị trấn Chợ Chùa nằm cách trung tâm thị xã Quảng Ngãi khoảng chừng mười cây số, đường sá gồ ghề. Thầy Hải Thịnh làm bạn đồng hành với tôi, thầy thay mặt Tăng chúng chùa Linh Mụ vào cúng dường và vấn an Hòa thượng. Chúng tôi đến thị trấn Chợ Chùa, nhác trông từ xa, ngôi chùa Quang Phước trơ trọi giữa cánh đồng xanh. Con đường độc nhất đến chùa vắng người qua lại, phía bên trái là các cơ quan nhà nước thuộc huyện Nghĩa Hành, phía bên phải là cánh đồng bát ngát. Chúng tôi băng qua vài thửa ruộng là đến cổng chùa.

Sau sự việc bắt bớ đoàn cứu trợ đồng bào lâm cảnh lũ lụt ở đồng bằng sông Cửu Long, do Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất tổ chức vào ngày 6 tháng 11 năm 1994, chính quyền cộng sản đưa Hòa thượng Thích Huyền Quang từ chùa Hội Phước đến đây để tiếp tục quản thúc. Mặc ai đó bên đường rình rập dòm ngó, tôi và thầy Hải Thịnh vẫn ung dung vào chùa đỉnh lễ vấn an ngài.

Hòa thượng dạy chuyện với anh em tôi hết sức thân tình, chúng tôi như những đứa con ở xa trở về thăm người cha già đơn độc, được nghe những lời dạy bảo của ngài. Gian phòng ở của ngài hết sức đơn sơ, thỉnh thoảng một vài ngọn gió từ cánh đồng thổi vào cũng không làm sao dịu bớt hơi nóng từ mái tôn hắt xuống. Sau bữa cơm chay đạm bạc, thầy trò lại mang chiếu gối lên chính điện để nghỉ, vì buổi trưa nắng gắt, không thể nào ở trong phòng được. Mấy người Phật tử ở xóm chùa hàng ngày đến làm công quả, quét dọn và lo cơm nước giúp ngài; chiều tối thì ai về nhà nấy, chỉ có một thầy vừa mới được cắt cử đến ở lại với Hòa thượng.

Ðến chiều, chúng tôi từ giã ngài ra về, trong lòng bịn rịn, muốn ở lại vài hôm để hầu chuyện với ngài, nhưng đâu có được. Hòa thượng tiễn chân chúng tôi ra tận cổng chùa rồi mới trở vào.

Trên đường về, thỉnh thoảng tôi ngoảnh lại trông quang cảnh chùa Quang Phước. Có ai ngờ rằng, đây là một nhà tù trá hình để giam giữ một vị đại lão Hòa thượng, chỉ vì ngài lãnh đạo công cuộc phục hồi quyền sinh hoạt pháp lý của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, đã bị nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam đàn áp khốc liệt suốt hai chục năm qua.

16. Cuộc đàn áp nước lũ

rở lại thành phố, phòng An ninh tôn giáo PA38 mời tôi đến làm việc, do tôi đã tự ý rời bỏ nơi bị quản chế đi nơi khác mà không trình báo. Trong thời gian vắng mặt, tôi đi đâu, làm gì, gặp ai, đều được viên công an tên Xuân thẩm vấn và viết vào biên bản ghi lời khai. Tuy nhiên, sự việc chưa đến lúc phải truy cứu trách nhiệm hình sự - theo lời của y - nếu có thể thì chỉ xử phạt hành chính, nghĩa là phải nộp tiền phạt. Nay xét về nhiều mặt, thì lần này tôi chỉ bị cảnh cáo.

Tôi tạm thời về Bình Dương, công an thành phố chỉ đạo địa phương làm thủ tục cho tôi tạm trú, chịu sự quản lý của công an xã Ðông Hòa, huyện Dĩ An và phải đến trình diện hằng tháng, đúng thời hạn quy định.

Trung tuần tháng 10 năm 1998, báo cáo viên Liên Hiệp Quốc đặc nhiệm vấn đề đàn áp tôn giáo trên thế giới - ông Abdelfattah Amor - đến Việt Nam để điều tra tình trạng nhà cầm quyền cộng sản đàn áp các tôn giáo, tôi dự tính sẽ đến thiền viện Thanh Minh để xem tình hình phái đoàn đến tiếp xúc với Hòa thượng Viện trưởng Viện Hóa Ðạo như thế nào, được biết ngài cũng vừa mới ra tù và hiện đang bị quản chế.

Thế nhưng, sáng sớm hôm ấy, tôi được thông báo phải có mặt tại cơ quan PA38 để làm việc. Tôi đoán biết chẳng có việc gì để làm, chẳng qua cơ quan an ninh muốn giữ chân tôi lại trong ngày này. Ðúng như dự đoán, các viên công an tại đây thay nhau tiếp tôi tại phòng hỏi cung phía bên phải cổng số 3, từ ngoài đi vào, họ bảo tôi chờ người phụ trách làm việc là đại úy Xuân, ông ấy có công tác đột xuất vừa mới đi vắng. Suốt cả mấy tiếng đồng hồ, những người này toàn cà kê với tôi những chuyện bâng quơ tầm phào, tôi cáo từ ra về, nhưng họ vẫn cứ bảo tôi cố nán lại chờ đợi. Nấn ná hồi lâu mãi đến hơn mười hai giờ trưa ông Xuân mới trở về.

Tôi tỏ ý bất mãn:

- Tại sao các ông hẹn tôi đến làm việc rồi lại bỏ đi, để tôi phải ngồi chờ ở đây từ sáng đến giờ?

- Tôi xin lỗi, vì có việc khẩn cấp phải đi ngay, nên tôi không kịp báo và dặn lại anh em được.

- Ông tưởng tôi không biết những việc gì đã xảy ra sáng nay. Cơ quan các ông đã cố tình giữ chân tôi ở đây nguyên cả buổi sáng, trong thời gian ông Abdelfattah Amor, đặc phái viên Liên Hiệp Quốc và phái đoàn đến thăm Hòa thượng Thích Quảng Ðộ.

Biết tôi đã rõ mọi chuyện, ông Xuân nói:

- Ðúng như vậy, phái đoàn ông Amor có đến Thanh Minh thiền viện để gặp cụ Quảng Ðộ, nhưng Phật tử ở đó đóng cửa chùa, họ nhất quyết không đồng ý cho ông ta vào thăm.

- Ông nói với trẻ con điều đó thì được, xưa nay cửa thiền luôn luôn rộng mở, Phật tử nào mà lại dám đi đóng cổng chùa không cho khách vào thăm. Lực lượng công an của các ông mặc thường phục mạo xưng Phật tử đóng cửa chùa thì có, chứ ai dám làm điều đó.

Khi ấy tôi mới biết, hôm nay ông Abdelfattah Amor không gặp được Hòa thượng Thích Quảng Ðộ. Ông Xuân hẹn tôi dịp khác sẽ mời đến làm việc, rồi tiễn tôi ra về.

Ngày rằm tháng tư năm Tân Tỵ (Phật lịch 2545 - Dương lịch 2001), tôi đến dự Ðại lễ Phật đản tại chùa Liên Trì. Thầy Thích Không Tánh cho biết, Hòa thượng Thích Quảng Ðộ dự định sẽ ra Quảng Ngãi để rước Hòa thượng Thích Huyền Quang vào Sài Gòn chữa bệnh. Ngót hai mươi năm chịu cảnh lưu đày, sức khỏe của ngài nay có phần sút giảm.

Ðầu tháng 6 năm ấy, tôi bị canh chừng cẩn mật, công an ngoại tuyến luôn luôn theo dõi, chính quyền suy tính rằng, tôi có thể gia nhập phái đoàn ra miền Trung. Ngày 5 tháng 6 năm 2001, ông trưởng công an xã Ðông Hòa, huyện Dĩ An đích thân đến gửi giấy mời, buộc tôi phải ký nhận, ngày mai tôi phải có mặt tại Ủy ban xã vào lúc 7 giờ, theo lý do được ghi trong giấy mời: “Báo cáo lại việc thực hiện quyết định quản chế của tòa án”.

Ngày 6 tháng 6 năm 2001, một cán bộ an ninh thuộc cơ quan công an PA38 - tỉnh Bình Dương - làm việc với tôi. Trong phòng tôi thấy có một người khác chỉ ngồi đọc báo, theo tôi đoán, người ấy đang nghe ngóng theo dõi buổi làm việc qua những cuộc đối thoại giữa tôi với gã công an này. Sau khi yêu cầu tôi viết bản tường trình về các hoạt động trong thời gian qua, ông ấy lập biên bản buộc tôi phải nghiêm chỉnh chấp hành quyết định quản chế của tòa án vào năm 1995. Kể từ hôm nay, cho đến ngày 13 tháng 6 năm 2001, tôi không được tự ý ra khỏi địa bàn xã Ðông Hòa, khi chưa được chính quyền cho phép. Tình hình an ninh tiếp tục thắt chặt, công an đặt chốt canh gác tôi suốt mấy ngày đêm một cách công khai.

Tôi tìm cách nhờ người liên lạc hỏi thăm tình hình thì được biết, hôm ấy, Hòa thượng Viện trưởng Viện Hóa Ðạo cũng bị công an ngăn chặn, ngài không thể nào rời khỏi thiền viện Thanh Minh và vừa mới nhận thêm văn bản quyết định quản chế của chính quyền.

Thế là đảng Cộng sản đương quyền tiếp tục mở cuộc trấn áp này sang đợt đàn áp khác. Hà Nội không từ bất cứ một thủ đoạn nào đối với Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, dù biết làm như vậy là phi nghĩa, bất nhân, trắng trợn vi phạm nhân quyền và các Công ước quốc tế mà họ đã đặt bút ký kết.

17. Lánh nạn tại xứ Chùa Tháp

Ngày 13 tháng 2 năm 2002, theo pháp lý là đúng ngày tôi được mãn hạn năm năm quản chế. Thế là ròng rã mười năm qua, kể từ khi mắc vòng lao lý vì tham gia hoạt động phục hồi quyền sinh hoạt của Giáo hội truyền thống, tôi chưa hề có một ngày được sống tự do.

Nay thời gian quản chế đã mãn, tôi hy vọng chính quyền cộng sản sẽ trả lại quyền công dân; mọi sinh hoạt, đi lại, cư trú của tôi sẽ không còn bị hạn chế như trước nữa. Việc trước mắt là chính quyền sẽ có thiện chí làm thủ tục nhập lại hộ khẩu cho tôi, sau mười mấy năm bị xóa sổ. Trong cơ chế quản lý nhân hộ khẩu dưới chế độ cộng sản, đây chính là mạch sống của người dân, giải quyết được mọi vấn đề pháp lý trong sinh hoạt xã hội, vì thế mọi người thường nói đùa, hộ khẩu cũng chính là hậu khổ.

Tôi kiên nhẫn chờ đợi chính quyền giải quyết các thủ tục pháp lý để có thể hòa nhập cộng đồng xã hội. Song đã hơn hai tháng trôi qua, quyền sống của tôi vẫn bị chà đạp, chính quyền vẫn tiếp tục quản thúc và sách nhiễu tôi mà không cho biết lý do, tôi cũng không được nhập lại hộ khẩu và vẫn phải đi trình diện đúng hạn kỳ như trước đây. Bởi thế cho nên, tôi chẳng còn sự chọn lựa nào khác, buộc lòng phải ra đi lánh nạn cộng sản để tìm tự do, cho dù phải đổi lấy mạng sống hoặc chịu cảnh tù đày đi chăng nữa!

Thầy Thích Tâm Vân và tôi kết bạn vong niên. Chúng tôi quen nhau trong dịp đi cứu trợ đồng bào bị thiên tai lũ lụt tại huyện Thanh Bình, tỉnh Ðồng Tháp vào trung tuần tháng 10 năm 1994. Ðợt cứu trợ này được sự hổ trợ của Viện Hóa Ðạo trong nước và Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất hải ngoại, ban Từ thiện xã hội và Tăng đoàn bảo vệ chánh pháp đảm nhiệm Phật sự.

Thầy Thích Tâm Vân cũng là nạn nhân của chế độ, thường xuyên bị sách nhiễu vì thầy không chịu tham gia Giáo hội nhà nước. Trước đây, thầy là ủy viên công cán Viện Hóa Ðạo, là người có tinh thần phục hoạt Giáo hội. Sau những lần bàn thảo, thầy Tâm Vân và tôi quyết định lên đường vượt biên giới sang Campuchia lánh nạn cộng sản.

Vào khoảng 3 giờ sáng, ngày 18 tháng 4 năm 2002, chúng tôi hẹn gặp nhau tại ngã tư Bình Phước (quốc lộ 13 đi Bình Dương và xa lộ Ðại Hàn) để đón xe xuôi miền Tây.

Qua những vùng sông nước chằng chịt hoặc đầm lầy mênh mông, nhờ có người tận tình dẫn đường, nên chúng tôi đã đến được xứ Chùa Tháp vào ngày 19 tháng 4 năm 2002. Trông xa kia là những cánh đồng còn trơ gốc rạ; dưới ánh nắng chói chang, một đàn bò gầy ốm ung dung gặm cỏ. Thỉnh thoảng chúng tôi băng ngang qua những hàng cây thốt nốt, hay một vài ngôi chùa giữa làng quê hẻo lánh, cờ Phật giáo quốc tế năm màu tung bay trước cổng chùa. Ðó đây một vài nhà sư khoác y vàng chậm rãi từng bước một, các vị này đi khất thực theo truyền thống của giáo phái Phật giáo Nam tông.

Giữa chốn đất khách quê người, lạc lõng giữa phố thị, chúng tôi nơm nớp lo âu vì không có hộ chiếu nhập cảnh, lỡ không may bị công an Campuchia xét hỏi giấy tờ thì sẽ gặp chuyện rắc rối. Nghĩ vậy tôi bèn bàn thảo với thầy Tâm Vân:
- Bạch thầy, giờ phút này đã đến lúc chúng ta hãy nên khẩn cấp như cứu lửa cháy trên đầu. Con thiển nghĩ rằng, chúng ta nên đến Tòa Ðại sứ Hoa Kỳ để xin cư trú chính trị, may ra có thể an toàn. Nếu chần chừ, công an Việt Nam có thể tầm nã. Ở đây, mật vụ cộng sản không phải là không có.

Nghe tôi đề nghị, thầy Tâm Vân đồng tình ngay.

Khoảng bốn người ngồi trong vọng gác ở cổng tòa Ðại sứ Hoa Kỳ đều là người Campuchia. Qua một vài câu trao đổi bằng tiếng Anh, họ hiểu ngay chúng tôi từ Việt Nam sang đây xin tỵ nạn chính trị, bèn gọi điện thoại vào bên trong báo tin. Một lát sau, hai viên chức tòa Ðại sứ đi ra và tiếp chúng tôi tại cổng. Ðối thoại một lúc, hai bên chưa thông hiểu lẫn nhau, vì khả năng giao tiếp bằng tiếng Anh của chúng tôi không được thông thạo lắm. Một viên chức sử dụng điện thoại cầm tay bấm máy gọi cho ai đó, rồi trao điện thoại cho thầy Tâm Vân và tôi nói chuyện. Bên kia có lẽ là một viên chức tòa Ðại sứ sử dụng tiếng Việt sành sỏi:

- Xin các ông cho chúng tôi biết quý danh. Ở Việt Nam, các ông đã gặp những khó khăn gì?

Tôi trả lời:

- Thưa ông, chúng tôi tên là Tâm Vân và Trí Lực, đều là thành viên của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất bị nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam đàn áp thô bạo suốt hơn hai mươi năm qua. Hai vị lãnh đạo của chúng tôi là ngài Thích Huyền Quang và Thích Quảng Ðộ hiện đang bị chính quyền quản thúc. Bản thân chúng tôi đã có những hoạt động đòi hỏi tự do tôn giáo và quyền con người, nên đã bị bắt giam và quản thúc suốt hơn mười năm nay. Chính quyền cộng sản Việt Nam hiện đang đàn áp Giáo hội chúng tôi mỗi ngày một thêm nghiệt ngã, bởi thế, buộc lòng chúng tôi phải vượt biên giới sang đây xin tỵ nạn.

- Tôi có biết sự việc Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất bị nhà cầm quyền thẳng tay đàn áp ở Việt Nam. Nay các ông đến đây cần chúng tôi giúp đỡ điều gì?

- Thưa ông, chúng tôi mong muốn được tòa Ðại sứ Hoa Kỳ chấp thuận cho chúng tôi tỵ nạn chính trị và không bao giờ chúng tôi muốn bị giao trả về Việt Nam.

- Ồ, không có điều đó đâu, làm sao mà chúng tôi có thể giao trả các ông. Thế nhưng, đất nước chúng tôi mới trải qua biến cố ngày 11 tháng 9 vừa qua, hiện giờ chưa ổn định, các ông muốn sang đất nước chúng tôi làm gì?

- Thưa ông, chúng tôi thành thật chia sẻ nỗi đau thương mất mát của chính phủ và nhân dân Hoa Kỳ. Biến cố ngày 11 tháng 9 năm 2001 là một cuộc khủng bố kinh hoàng chưa từng có. Thế nhưng, Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ là một đất nước luôn luôn tôn trọng tự do, dân chủ và nhân quyền; bởi thế, chúng tôi khát khao được sống trong một đất nước tự do.

- Cảm ơn các ông đã có lời chia buồn với chúng tôi. Nhưng tòa Ðại sứ chúng tôi không tiếp nhận người tỵ nạn. Các ông hãy thông cảm và nên đến Cao ủy Tỵ nạn Liên Hiệp Quốc để trình bày hoàn cảnh, chúng tôi hy vọng các ông sẽ được giúp đỡ.

Cuộc trao đổi giữa chúng tôi và các viên chức tòa Ðại sứ Hoa Kỳ ở Phnom Penh trong bầu không khí hết sức chân tình và thông cảm lẫn nhau. Các vị ấy không quên ghi cho chúng tôi địa chỉ văn phòng Cao ủy Tỵ nạn Liên Hiệp Quốc (UNHCR). Chúng tôi trân trọng cảm ơn và kính chào tạm biệt.

Ðã gần 4 giờ chiều, chúng tôi tìm được phủ Cao ủy Tỵ nạn Liên Hiệp Quốc, tọa lạc tại số 2, đường 352, thủ đô Phnom Penh. Hôm ấy, nhằm ngày thứ sáu cuối tuần, giờ này văn phòng đã nghỉ làm việc, nên các nhân viên bảo vệ dặn chúng tôi sang ngày thứ hai tuần tới hãy trở lại.

Tôi đi tìm trạm điện thoại công cộng liên lạc với thầy Thích Vân Ðàm ở Hoa Kỳ là pháp hữu của tôi và ông Võ Văn Ái ở Pháp để báo tin, đồng thời nhờ các vị ấy vận động can thiệp.

Nhờ hỏi thăm một người qua đường, chúng tôi mướn được một chỗ trọ rẻ tiền, không có phòng mà chỉ ngủ nghỉ ở gác gỗ bên hàng hiên.

Thứ hai ngày 22 tháng 4 năm 2002, chúng tôi trở lại phủ Cao ủy Tỵ nạn Liên Hiệp Quốc để nộp hồ sơ xin tỵ nạn và được ông Mony tiếp nhận. Mấy ngày sau,theo giấy hẹn đến phỏng vấn, vì không có thông dịch viên nên ông ấy cứ lần lữa hẹn rày hẹn mai; tuy nóng lòng nhưng chúng tôi cũng đành phải kiên nhẫn đợi chờ. Sở dĩ trễ nải như thế, vì hiện đang vào thời kỳ Liên Hiệp Quốc tập trung phỏng vấn khoảng một nghìn người Thượng Tây Nguyên tại trại tỵ nạn Phnom Penh; số người này bị chính quyền cộng sản Việt Nam đàn áp trong các cuộc biểu tình đòi hỏi tự do tôn giáo và đòi lại đất đai của họ bị chiếm đoạt, sự biến xảy ra vào đầu năm 2001.

Trong thời gian chờ đợi phỏng vấn, một vị thầy trú trì ngôi chùa vùng Xóm Mới, ngoại ô thành phố Phnom Penh, đã hoan hỷ cho thầy Tâm Vân và tôi ẩn thân. Nhưng có lẽ do bị chỉ điểm, công an Campuchia bèn vào chùa xét hỏi, bởi thế, chúng tôi đành phải rời khỏi ngôi chùa này. Sau đó, nhờ gặp được vài người tốt bụng thuộc Phật giáo Hòa Hảo, họ đã nhiệt tình giúp đỡ chúng tôi nơi ăn chốn ở.

18. Cao ủy tỵ nạn Liên Hiệp Quốc phỏng vấn

Trung tuần tháng 5 năm 2002, bà Sara Colm - một viên chức thuộc Tổ chức Theo dõi Nhân quyền (Human Rights Watch) phụ trách Á châu - mời chúng tôi đến văn phòng Cao ủy Nhân quyền Liên Hiệp Quốc, tọa lạc tại đường Mao Trạch Ðông (Mao Tse Tung Blvd) ở Phnom Penh để phỏng vấn, giáo sư Võ Văn Minh là người thông dịch. Bà ấy hứa sẽ làm hết sức mình để can thiệp cho chúng tôi. Trước khi ra về, bà không quên căn dặn chúng tôi phải hết sức cảnh giác, vì đã xảy ra nhiều vụ công an Việt Nam bắt cóc người tỵ nạn ở đây.

Sau này tôi được biết, ông Võ Văn Ái ở Pháp đã liên lạc và gửi gắm chúng tôi cho bà Sara Colm, nên mới có buổi gặp gỡ này. Trong thời gian chờ đợi Cao ủy Tỵ nạn Liên Hiệp Quốc phỏng vấn, chúng tôi như sống trong cảnh nước sôi lửa bỏng, bởi có nguy cơ sẽ bị công an mật vụ Việt Nam lùng bắt bất cứ lúc nào.

Thế rồi, ngày tôi hằng mong đợi đã đến. Ông Mony viết giấy hẹn tôi đến phỏng vấn vào lúc 14 giờ, ngày 31 tháng 5 năm 2002. Tôi đi bộ ngang đài Ðộc Lập, thấy thời gian còn sớm bèn vào ngôi chùa lớn ở gần đó để lễ Phật và nghỉ chân. Tôi tiếp tục đi dọc theo đường Norodom, đến ngã ba đường số 352, tôi nhìn thấy hai người lảng vảng dưới bóng cây bên góc đường, ánh mắt họ nhìn tôi ra vẻ dò xét. Tôi dừng chân dưới bóng cây xoài phía trước Phủ Cao ủy, mấy nhân viên bảo vệ vui vẻ ra hiệu cho tôi đến ký tên vào sổ và nhận thẻ kiểm soát.

Ngồi chờ một chốc ở dãy ghế đặt trước hàng hiên, ông Mony dẫn tôi lên phòng làm việc ở lầu một rồi trở ra. Tôi kiểm lại các giấy tờ mang theo và hy vọng tràn trề, chiều hôm nay, mình sẽ được Cao ủy phỏng vấn sau gần một tháng rưỡi sang đây. Khoảng mười phút sau, ông Mony trở vào phòng, đi theo là một viên chức phốp pháp, trên tay hai người đều mang hồ sơ dày cộm. Tôi đứng dậy gật đầu chào, hai vị ấy mỉm cười chào lại và đưa tay ra dấu mời tôi ngồi xuống. An tọa xong, viên chức kia giới thiệu ông Mony bằng tiếng Việt hết sức sành sỏi. Ông ấy nói tiếp:

Tôi tên là Göran Rosén, đã từng sống và làm việc ở Việt Nam gần hai mươi năm nay, tôi cũng vừa mới từ Việt Nam về. Trong buổi phỏng vấn hôm nay, tôi sẽ là người thông dịch. Tôi đã đọc kỹ hồ sơ xin tỵ nạn của ông, xin ông có thể cho tôi được gọi ông bằng thầy trong cách xưng hô.

Tôi mỉm cười đáp lại:
- Tôi rất lấy làm hân hạnh được gặp hai ngài, và tùy quý ngài muốn gọi thế nào cũng được.

Hai viên chức phủ Cao ủy Tỵ nạn thong thả soạn các hồ sơ ra giữa bàn. Bất chợt tôi thoáng nhìn thấy một văn bản tiếng Anh, trên góc trái có in huy hiệu đặc biệt của Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế hết sức quen thuộc, cạnh đó là một văn bản có in dòng chữ Human Rights Watch (Tổ chức Theo dõi Nhân quyền). Tôi suy đoán rằng, như vậy là những thông tin liên lạc của tôi ở Campuchia đã được Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế và Ủy ban Bảo vệ Quyền làm Người Việt Nam tiếp nhận. Nay ông Võ Văn Ái đã gửi thư nhằm can thiệp với phủ Cao ủy Tỵ nạn Liên Hiệp Quốc về tình trạng của tôi. Thêm nữa, tôi đoán chừng bà Sara Colm cũng đã gửi văn bản đến phủ Cao ủy, ngõ hầu can thiệp cho thầy Tâm Vân và tôi sau buổi phỏng vấn vừa qua tại văn phòng Cao ủy Nhân quyền Liên Hiệp Quốc ở Phnom Penh.

Tôi chăm chú lắng nghe ông Göran Rosén nói một cách chậm rãi từng câu tiếng Việt rất chuẩn và rõ ràng:

- Hôm nay, chúng tôi đại diện Phủ Cao ủy Tỵ nạn Liên Hiệp Quốc tiến hành phỏng vấn thầy. Sau đó, chúng tôi sẽ xem xét thầy có đủ tư cách và điều kiện để hưởng quy chế tỵ nạn chính trị hay không? Chúng tôi có bổn phận giữ kín nội dung trao đổi, nghĩa là sẽ không công bố các vấn đề được nêu ra trong buổi tiếp xúc này. Nếu xét thấy chưa hội đủ tiêu chuẩn để hưởng quy chế tỵ nạn, thì chúng tôi sẽ giới thiệu thầy đến gặp luật sư về công pháp quốc tế, để nhờ vị ấy giúp đỡ.

Nói đến đây, ông Göran quay sang nói chuyện với ông Mony bằng tiếng Anh, đoạn ông ấy nói tiếp:

- Theo nguyên tắc, một người được gọi là tỵ nạn, người ấy phải từ một đất nước khác đến đây là quốc gia thứ hai. Sau khi được công nhận quyền tỵ nạn, Liên Hiệp Quốc sẽ điều đình xem có quốc gia thứ ba nào chấp thuận cho người ấy định cư, văn phòng Cao ủy sẽ làm thủ tục cho người ấy ra đi. Như vậy, người Campuchia không thể đến đây xin tỵ nạn, mà phải đi đến một đất nước khác. Nay thầy hãy cho chúng tôi biết, ở Việt Nam, thầy đã gặp phải tình cảnh như thế nào mà phải sang đây lánh nạn và cần Phủ Cao ủy chúng tôi giúp đỡ?

Tôi tập trung suy nghĩ và sắp xếp trình tự câu trả lời ngắn gọn, ông Göran dịch lại từng đoạn ngắn bằng tiếng Anh cho ông Mony hiểu. Thỉnh thoảng họ ghi chép vào biên bản phỏng vấn và sổ tay những ý tưởng tôi vừa trình bày. Tôi trả lời:

- Thưa quý ngài, trước hết tôi chân thành cảm ơn Cao ủy Tỵ nạn Liên Hiệp Quốc đã dành cho tôi buổi phỏng vấn hôm nay. Kể từ khi miền Nam Việt Nam rơi vào tay cộng sản ngày 30 tháng 4 năm 1975, nhà cầm quyền cộng sản đã đặt ách thống trị hà khắc, đang tâm đàn áp Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất chúng tôi một cách thô bạo và hết sức nghiệt ngã. Ðây là Giáo hội truyền thống được kế thừa trải qua gần hai nghìn năm lịch sử. Nhiều vị trong hàng Giáo phẩm lãnh đạo Giáo hội bị cầm tù hoặc bị quản thúc, các vị khác đành phải bỏ quê hương đất nước ra đi, vượt qua muôn nghìn hiểm nguy sóng gió trên biển Ðông để đến được bến bờ tự do. Hiện nay, hai ngài lãnh đạo Giáo hội là Hòa thượng Thích Huyền Quang và Thích Quảng Ðộ đang bị quản thúc nghiêm ngặt.

Năm 1992, ngài Thích Ðôn Hậu viên tịch tại chùa Linh Mụ, đã để lại chúc thư phó thác cho ngài Thích Huyền Quang tiếp tục điều hành Phật sự Giáo hội. Bản thân tôi đã có những hoạt động đòi hỏi tự do tôn giáo, qua công cuộc vận động phục hồi quyền sinh hoạt pháp lý của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Tôi bị chính quyền Cộng sản bắt ngày 2 tháng 10 năm 1992, cùng lúc với ngài Thích Không Tánh và giáo sư Nhật Thường. Một thời gian sau, chúng tôi được thả và bị quản thúc vô thời hạn.

Ngày 6 tháng 11 năm 1994, chúng tôi tham gia cứu trợ đồng bào lâm cảnh lũ lụt ở đồng bằng sông Cửu Long do ngài Thích Quảng Ðộ tổ chức, chúng tôi lại bị bắt giam. Ngày 15 tháng 8 năm 1995, tòa án Nhân dân thành phố Hồ Chí Minh ra án quyết phạt tôi ba mươi tháng tù giam và năm năm quản chế. Ðáng lẽ tôi được mãn án vào đầu năm 2002, thế nhưng nhà cầm quyền cộng sản vẫn tiếp tục quản thúc tôi, quyền sống của tôi bị chà đạp, bởi thế tôi đành phải tìm đường vượt biên giới sang đây lánh nạn.

Ông Göran Rosén hỏi:
- Thầy vượt qua biên giới hai nước vào ngày nào?

- Tôi vượt biên giới và đặt chân đến xứ Chùa Tháp vào ngày 19 tháng 4 năm 2002.

- Khi đi thầy có hộ chiếu thông hành hay không?

- Thưa không, làm sao tôi có thể được cấp hộ chiếu trong khi tôi không có hộ khẩu.

- Tại sao thầy không có hộ khẩu?

- Theo luật pháp Việt Nam, người nào bước chân vào tù là đã bị chính quyền địa phương xóa tên trong sổ hộ khẩu.
- Khi mãn hạn năm năm quản thúc, chính quyền cho thầy nhập lại hộ khẩu hay không?

- Thưa không.

Sau khi nói chuyện với ông Mony, ông Göran hỏi tiếp:

- Các bị cáo trong phiên tòa gồm có những ai? Tất cả bị kết án về tội danh gì?

- Các bị cáo trong phiên tòa hôm ấy gồm có quý ngài Thích Quảng Ðộ, Thích Không Tánh, Thích Nhật Ban, thầy Nhật Thường, Phật tử Ðồng Ngọc và tôi. Chúng tôi bị kết án theo hai tội danh: “Phá hoại chính sách đoàn kết” và “Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của nhà nước”.

- Sau khi kết án, chính quyền giam giữ thầy ở đâu?

- Sau khi tòa phán quyết bản án, tôi bị giam giữ tại trại Z30A, huyện Xuân Lộc, tỉnh Ðồng Nai.

Ông Göran gật đầu:
- Ðã có lần tôi đến trại Xuân Lộc.

Tôi lấy các giấy tờ liên quan trong thời gian bị cầm tù và quản thúc trao cho ông Göran, ông ấy xem từng văn bản và lần lượt giải thích cho ông Mony hiểu. Hai vị ấy thay nhau hỏi tôi thêm một vài sự việc về Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất và những nguyên nhân đưa đến sự lánh nạn của tôi hôm nay.

Ông Mony lần lượt ghi vào tập hồ sơ phỏng vấn.
Sau khi nói lời kết thúc, hai viên chức ấy hẹn tôi có mặt tại văn phòng Cao ủy vào sáng thứ hai tuần tới. Chúng tôi chào tạm biệt.

Tôi bước chân ra về trong niềm vui lâng lâng, cơn mưa lớn ban chiều cũng vừa tạnh hẳn. Tôi ghé qua trạm điện thoại bên đường gọi cho anh Võ Thành Vinh, nhờ anh ấy chuyển lời lại với bà Sara Colm, báo tin cho bà ấy biết, rằng hôm nay tôi đã được Cao ủy Tỵ nạn phỏng vấn và xin có lời cảm ơn bà rất nhiều.

Ngày 3 tháng 6 năm 2002, tôi được phủ Cao ủy Tỵ nạn Liên Hiệp Quốc ở Phnom Penh cấp giấy tạm thời trong lúc chờ đợi cứu xét được hưởng quy chế tỵ nạn. Cơ quan trực thuộc Cao ủy Tỵ nạn là Jesuit Refugee Service (J.R.S) ở Campuchia cấp phát cho người tỵ nạn tám mươi lăm Mỹ kim mỗi tháng, nhờ đó, tôi có thể đắp đổi qua ngày.

Tôi gửi thư liên lạc với thầy Thích Vân Ðàm và ông Võ Văn Ái, báo tin về việc phỏng vấn và đã có giấy chứng nhận tạm thời. Bước đầu như thế, tôi nghĩ rằng tương đối khả quan.

19. Được hưởng quy chế tỵ nạn

Thầy Tâm Vân gửi thư vấn an Hòa thượng Thích Giác Lượng, Phó Chủ tịch Hội đồng điều hành Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất hải ngoại, đặc trách giải trừ pháp nạn. Chúng tôi nhận được thư hồi âm của ngài với lời lẽ thăm hỏi và động viên chúng tôi hết sức đạo tình.

Thầy Thích Vân Ðàm gửi thư hồi âm cho chúng tôi biết, thầy đã trình sự việc lên chư tôn đức trong Giáo hội để quan tâm chiếu cố bảo lãnh thầy Tâm Vân và tôi, chúng tôi hy vọng được đi định cư ở Hoa Kỳ.

Ngày 12 tháng 6 năm 2002, tôi viết một bức tâm thư tường trình dâng lên nhị vị Hòa thượng Thích Huyền Quang và Thích Quảng Ðộ, kính vấn an đỉnh lễ chư tôn Giáo phẩm Hội đồng Lưỡng Viện, thỉnh cầu Giáo hội can thiệp cho chúng tôi sớm được hưởng quy chế tỵ nạn.

Hạ tuần tháng 6 năm 2002, tôi đến văn phòng Cao ủy để bổ túc giấy tờ, tình cờ tôi gặp ông Göran Rosén trước sân, khi xe đưa ông đến làm việc. Gặp lại tôi, ông vui vẻ chào hỏi, chúng tôi nói chuyện một lát, khi đó tôi mới biết ông ấy là người Thụy Ðiển. Ông Göran nhờ tôi nhắn lại với thầy Tâm Vân, rằng sáng mai mời cả hai người đến vãn phòng, để ông có việc cần trao đổi. Tôi đến báo tin cho thầy Tâm Vân hay, đúng giờ hẹn, chúng tôi cùng đi.

Ông Göran Rosén niềm nở tiếp chúng tôi tại phòng làm việc. Ông ấy hỏi thăm thầy Tâm Vân một số vấn đề để bổ túc vào hồ sơ. Ðến 12 giờ, ông có nhã ý mời chúng tôi đi ăn trưa, có bà Sara Colm chờ chúng tôi ở ngoài, ông ấy sẽ đến sau.

Tại một khu yên tĩnh gần đó, bốn người chúng tôi cùng trao đổi chuyện trò vui vẻ. Bà Sara Colm chuyển lại cho chúng tôi món quà của đạo hữu Nguyên Thái Võ Văn Ái và Hồng Chi Ỷ Lan ở Pháp gửi biếu, chúng tôi vô cùng cảm kích trước đạo tình thắm thiết của quý đạo hữu ấy đã dành cho chúng tôi.

Bà Sara Colm trong Tổ chức Theo dõi Nhân quyền nói chuyện với tôi qua lời phiên dịch của ông Göran, đề nghị tôi viết một bản phúc trình về các nhân vật bất đồng chính kiến hiện đang còn bị giam giữ tại trại giam Xuân Lộc, ngõ hầu tổ chức này có đủ cơ sở để can thiệp với chính phủ Việt Nam trả tự do cho các vị ấy. Bà ấy cho biết, đây là một việc làm mang tính cách nhân đạo, nên tôi hoan hỷ nhận lời.

Tôi khởi sự ngay vào việc viết bản phúc trình về hiện trạng tù nhân chính trị ở Việt Nam đề ngày 26 tháng 6 năm 2002 để gửi cho hai vị ấy.

Ðêm 28 tháng 6 năm 2002, thầy Tâm Vân nhận được điện thoại của ông Göran gọi đến, ông ấy mời chúng tôi có mặt tại văn phòng Cao ủy vào ngày mai. Mặc dầu đêm đã dần khuya, thầy cũng nhiệt tình đến nơi tôi tạm trú để thông báo tin này.

Ngày 29 tháng 6 năm 2002, chúng tôi y hẹn và có mặt tại văn phòng làm việc của ông Göran Rosén. Ðang ngồi chờ trong phòng, thì ông Göran mở cửa bước vào, theo sau là bà Sara Colm và một nữ viên chức khác. Sau khi chào hỏi theo phép xã giao, ông Göran giới thiệu với chúng tôi, nữ viên chức đó là bà Elizabeth Kirton, trưởng văn phòng Cao ủy Tỵ nạn Liên Hiệp Quốc ở Phnom Penh, Cambodia. Khi mọi người an tọa, ông Göran nói một cách trịnh trọng:

- Sau một thời gian xem xét hồ sơ, chúng tôi nhận thấy sự việc của hai thầy hết sức rõ ràng. Do đó, phủ Cao ủy quyết định cấp giấy chứng nhận quy chế tỵ nạn chính trị cho hai thầy. Kể từ hôm nay, hai thầy được quyền cư trú trên toàn lãnh thổ Cam-Bốt dưới sự bảo vệ của Liên Hiệp Quốc, để chờ đi định cư ở một đệ tam quốc gia. Chúng tôi xin chúc mừng hai thầy.

Nói xong, ông Göran Rosén trao thẻ tỵ nạn cho chúng tôi. Thầy Tâm Vân và tôi nói lời cảm tạ, bày tỏ lòng biết ơn sâu xa đến Cao ủy Tỵ nạn Liên Hiệp Quốc và các tổ chức bảo vệ nhân quyền.

Tôi nói tiếp:

- Chúng tôi hết sức vui mừng khi được hưởng quy chế tỵ nạn. Tuy nhiên, con đường phía trước sẽ còn nhiều hiểm trở chông gai, không chắc gì suông sẻ. Chúng tôi luôn luôn đặt vào tình huống có thể bị công an mật vụ Việt Nam vây bắt bất cứ lúc nào; bởi vậy, xin đề nghị quý vị cho chúng tôi vào trại tỵ nạn.

Ông Göran dịch sang tiếng Anh cho hai bà ấy hiểu ý của tôi vừa trình bày, sau đó trả lời:

- Trại tỵ nạn chỉ dành riêng cho người Thượng Tây Nguyên, các thầy không thể vào đó được.

Ông Göran không nêu lý do tại sao chúng tôi không được vào trại tỵ nạn ở Phnom Penh. Ông ấy quay sang nói chuyện với bà Elizabeth Kirton và Sara Colm, có lẽ các vị ấy trao đổi ý kiến gì đó. Một lát sau, ông Göran nói với chúng tôi:
- Xin lỗi, nảy giờ chúng tôi bàn bạc về việc sắp xếp chỗ ở cho hai thầy. Chúng tôi nghĩ, có lẽ sẽ tìm một gia đình người Campuchia thân tín nào đó để gửi gắm hai thầy.

Bà Elizabeth Kirton nói tiếp và được ông Göran dịch lại:

- Ðầu tháng 7 sắp đến, tôi có tham dự phiên họp với Ðại sứ quán Hoa Kỳ ở Phnom Penh. Ðặc biệt, tôi sẽ nêu vấn đề của hai thầy trong nghị trình thảo luận, để Ðại sứ quán xem xét giải quyết, ngõ hầu chấp thuận cho hai thầy sớm đi định cư. Nay mai, văn phòng Cao ủy Tỵ nạn sẽ làm thủ tục gửi danh sách của hai thầy đến bộ Nội vụ Cam-Bốt, để thông báo với chính phủ hoàng gia về những người được quyền cư trú trên lãnh thổ vương quốc này, dưới sự bảo vệ của Liên Hiệp Quốc, theo Công ước Quốc tế mà chính phủ Cam-Bốt đã ký kết vào năm 1951.

Bà Sara Colm vui vẻ tươi cười chúc mừng chúng tôi. Ông Göran còn dặn dò thêm:

- Tuần sau, tôi bắt đầu đi nghỉ hè khoảng bốn mươi lăm ngày. Trong thời gian vắng mặt, tôi sẽ ủy nhiệm công việc cho một viên chức ở văn phòng. Ðây là tên và số điện thoại của người ấy để hai thầy tiện liên lạc. Hãy nhớ rằng, đừng đi đâu xa và không nên ra khỏi Phnom Penh. Văn phòng Cao ủy sẽ cố gắng sắp xếp chỗ ở an toàn cho hai thầy trong thời gian sớm nhất. Chúc hai vị may mắn.

Chúng tôi tỏ lời cảm ơn các viên chức này một lần nữa rồi chào tạm biệt.

Cầm tấm thẻ chứng nhận quy chế tỵ nạn trong tay, tôi như người đang lênh đênh giữa biển khơi sóng gió may vớ phải chiếc phao; tựa hồ kẻ lạc lõng giữa đêm trường u tối gặp được đốm lửa soi đường; trong lòng mình bỗng dâng lên một niềm cảm xúc khôn nguôi.

20. Những mối âu lo

Ðầu tháng 7 năm 2002, tôi nhận được thư thăm hỏi của quý vị Tăng Ni ở Nhật Bản; đạo hữu Nguyễn Thị Chánh pháp danh Tâm Thanh ở San Diego cùng các Phật tử ân nhân ở Hoa Kỳ; đạo hữu Nguyễn Viết Cập pháp danh Phúc Thắng ở Sydney và gia đình họ Nguyễn Viết định cư ở Úc Ðại Lợi. Hãy còn biết bao vị ân nhân khác, đã niệm tình cứu giúp chúng tôi trong cảnh ngặt nghèo giữa chốn đất khách quê người.

Nay đạo hữu Phật tử Phúc Thắng và Phật tử Tâm Thanh đã từ giã cõi đời, tôi thành kính đốt một nén hương lòng tưởng niệm Hương linh và cầu nguyện chư vị tiêu diêu miền Cực Lạc.

Trung tuần tháng 7 năm 2002, ông Vũ Quốc Dụng - viên chức thuộc Hiệp hội Nhân quyền Quốc tế (ISHR) đặc trách Á châu - gửi thư thăm hỏi về hiện tình của tôi ở Campuchia, đồng thời tổ chức này muốn tìm hiểu thêm về tình hình Tăng Ni Phật tử thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất ở quê nhà, sau khi Hòa thượng Thích Quảng Ðộ bị chính quyền cộng sản ra lệnh quản thúc hồi năm ngoái. Ngoài ra, ông Vũ Quốc Dụng còn gửi cho tôi bản Quyết nghị của Quốc hội Cộng hòa Liên bang Ðức tại Berlin thông qua ngày 28 tháng 6 năm 2002, về tình trạng nhân quyền và người thiểu số tại Việt Nam.

Thầy Thích Tâm Vân đến tá túc tại một ngôi chùa tọa lạc gần cầu Saigon ở Phnom Penh, nơi khu nhà người Việt bị hỏa hoạn thiêu rụi năm kia. Vừa mới ở một sớm một chiều, thầy được một người tốt bụng thông tin, rằng tòa Ðại sứ Cộng sản Việt Nam ở Phnom Penh căn dặn một số Việt kiều thân tín với họ, nếu thấy hai thầy lạ mặt từ Việt Nam mới sang, thì phải báo tin ngay cho tòa Ðại sứ biết. Nghe thế, thầy Tâm Vân vội vàng rời khỏi chùa ấy ngay.

Hôm nọ, tôi đến thăm thầy Tâm Vân vào buổi chiều ngày rằm tháng 6 Âm lịch (2002), thầy kể rõ chuyện vừa mới xảy ra ban sáng, có vài người lạ mặt lùng bắt thầy, khi thầy đến làm lễ quy y cho Phật tử tại một ngôi chùa cách trung tâm thành phố Phnom Penh chừng mười cây số. Nhờ điện thoại thông báo kịp thời cho phủ Cao ủy Tỵ nạn, các viên chức Liên Hiệp Quốc lập tức đến nơi, các kẻ lạ mặt ấy tức khắc giải tán, nhờ thế thầy được an toàn.

Trước diễn biến sự việc như vậy, chúng tôi đoán biết tình hình đã đến lúc vô cùng nguy khốn, bọn công an mật vụ cộng sản Việt Nam đang sục sạo chúng tôi khắp nơi. Trong lúc tôi chưa tìm được một nơi để lánh thân, vì chỗ ở cũ thế nào cũng bại lộ, không biết chuyện gì rồi đây sẽ xảy ra? (còn tiếp)

Xem tiếp: » BAO NỖI TANG THƯƠNG (PHẦN 3)
Hoặc xem trước trọn bộ tại đây: » BAO NỖI TANG THƯƠNG (BẢN MỚI)

^ TRỞ LÊN ^
» TRANG CHỦ


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét