BAO NỖI TANG THƯƠNG

TRANG  QUYỀN DÂN                        ★
DĨ ĐỨC VI TIÊN - THỨ CHI DÂN CHỦ - DÂN QUYỀN TỐI THƯỢNG - NHIÊN HẬU PHÚ CƯỜNG
Việt Nam không có Nhân Quyền - Nên ta phải lấy Quyền Dân để đòi
GOD! PLEASE HELP US STOP THE INVASION OF CHINA AND END THE COMMUNIST DICTATORSHIPS OF VIETNAM
Tổ quốc lâm nguy, Việt cộng đè, Trung cẩu lấn - Kề vai sát cánh, đồng tâm chung sức cứu non sông
Hồi ký
BAO NỖI TANG THƯƠNG

Cư sĩ TÂM NGUYỆN (TRÍ LỰC)

» PHẦN 1   » PHẦN 2   » PHẦN 3   » PHẦN 4

Xem trước trọn bộ tại đây: » BAO NỖI TANG THƯƠNG

❏ Tái đăng ngày: 27/09/2017 (trang trước bị sập)

PHẦN 1 C

hân thành tri ân và ngưỡng mộ những tù nhân chính trị, tôn giáo, tù nhân lương tâm; những người đã và đang chịu muôn vàn thống khổ trong cảnh lao ngục bởi bạo quyền cộng sản gian ác độc tài.
Thành kính đốt nén tâm hương để tưởng niệm những hương hồn bất hạnh đã mãi mãi ra đi!!


Lời giới thiệu
(Photo Lê Thanh Hiệp, phóng viên hãng thông tấn AP tại Việt Nam)

382357-R1-038-17A

Khi được tin ông Trí Lực đi qua Thụy Điển tị nạn chánh trị, người bạn của tôi ở Sài Gòn ân cần nhắn tin nhờ tôi lúc nào có cơ hội tìm hỏi thăm sức khỏe và đời sống mới của ông Trí Lực. Anh chỉ biết ông Trí Lực đi tị nạn ở Thụy Điển vì trước khi đi, ông Trí Lực ghé qua thăm anh bạn của tôi lần cuối, căn dặn sẽ không liên lạc nhau để tránh cho người ở lại những phiền phức vô ích. Nhớ lời bạn dặn, tôi điện thoại cho ông Võ Văn Ái nhiều lần, có lẽ chẳng may, nhằm những lúc ông đi vắng. Một hôm, tôi may mắn gặp được bà Ỷ Lan qua điện thoại. Quả nhiên tôi được bà Ỷ Lan trả lời bà không biết địa chỉ, chỉ biết ông Trí Lực tị nạn ở Thụy Điển mà thôi. Tôi hỏi thêm vậy ông Ái có biết không? Bà quả quyết ông Ái cũng không biết.

Vẫn tiếp tục hỏi thăm về ông Trí Lực, một hôm tôi được một người bạn làm việc ở đài Á châu Tự do giới thiệu cho tôi ông Phạm Trần Anh, hội trưởng Hội cựu tù nhân chánh trị và tôn giáo Việt Nam ở Huê Kỳ. Ông Phạm Trần Anh đã sốt sắng cho tôi đầy đủ địa chỉ của ông Trí Lực ở Thụy Điển. Tôi vội liên lạc và nhận được thư trả lời của ông Trí Lực. Lập tức, tôi báo tin với cả địa chỉ điện thư của ông Trí Lực cho người bạn ở Sài Gòn. Từ đây, tôi quen biết ông Trí Lực và thỉnh thoảng thư từ qua lại.

Sau đó ít lâu, một hôm ông Trí Lực ngỏ ý muốn tôi đọc hồi ký Bao nỗi tang thương của ông viết xong đầu xuân Ất Dậu tại Thụy Điển với gợi ý, nếu có thể được, cho phổ biến để giúp ông bày tỏ nỗi lòng đối với thầy Đôn Hậu và các thầy đồng viện. Vâng lời ông, tôi gởi đến vài báo quen và hồi ký của ông được đăng tải hằng ngày và hằng kỳ.

Nhiều độc giả đọc xong, ngỏ ý muốn có được tập hồi ký giữ trong tủ sách gia đình. Tác giả sốt sắng đồng ý cho in và phổ biến dưới dạng ấn tống, hoàn toàn không bán.

Đó là cơ duyên có tập Bao nỗi tang thương đang trong tay quí bạn.

Một lòng với Ân Sư

Qua tập hồi ký, tác giả ghi lại những kỷ niệm của thời gian dài ông sống bên cạnh Huề thượng Đôn Hậu tại chùa Linh Mụ, với lòng thương nhớ không nguôi từ lúc Huề thượng bị Việt cộng Hà Nội tổ chức bắt cóc dẫn đi ra Hà Nội. Ông quả quyết Huề thượng Đôn Hậu trước sau vẫn là kẻ chơn tu, đạo hạnh viên mãn. Theo ông, Huề thượng Đôn Hậu sở dĩ đã phải đi theo Việt cộng Hà Nội vì không thể làm gì khác hơn được trong hoàn cảnh bản thân bị khống chế, trong lúc đó nhiều đệ tử và phần lớn Phật tử của ngài đang nằm trong vòng kiểm soát của giặc. Hơn nữa, kẻ tu hành không thể không chấp nhận nghiệp quả của thân tứ đại đang mang.

Sau 30-04-1975, được trở về chùa Linh Mụ, Huề thượng đã nhiều lần cự tuyệt những đề nghị một số việc làm của nhà cầm quyền Hà Nội nhằm phục vụ chánh quyền. Trước khi viên tịch, Huề thượng căn dặn tổ chức tang lễ của ngài trong vòng nghi lễ tôn giáo đơn giản, từ chối nghi lễ của nhà cầm quyền có tính cách tuyên truyền chánh trị. Và các vị đệ tử của ngài đã vâng lời thực hiện nghiêm chỉnh di chúc. Từ chối ông Nguyễn Hữu Thọ làm trưởng ban tang lễ và đọc điếu văn, từ chối huy chương của Hà Nội...

Về tác giả, bản thân là kẻ tu hành, tác giả cũng đã nhiều lần vào tù ra khám, bị công an làm thầy chùa trù dập, không có chùa nương tựa, không có hộ khẩu của một người dân bình thường của xã hội xã hội chủ nghĩa. Bị lâm vào thế cùng đường, ông Trí Lực trốn được qua Miên, bị công an mật vụ Hà Nội ở Nam Vang rình bắt cóc sau khi ông được qui chế tị nạn của Liên Hiệp Quốc. Ông bị công an đẩy lên xe bít bùng chở thẳng về Tây Ninh, đưa ra tòa án nhân dân xét xử về tội “Trốn ra nước ngoài nhằm mục đích chống lại chánh quyền nhân dân”.

Nhờ hải ngoại tố cáo Hà Nội vi phạm Công ước Quốc tế, và mặt khác, Hà Nội sợ ông khai trước tòa có báo chí và công chúng theo dõi mà biết những điều đình mờ ám của chánh quyền với ông, như chánh quyền đề nghị ông phủ nhận những lời của ông khai trong hồ sơ tị nạn, ông nên ở lại Việt Nam,… chánh quyền sẽ cấp cho ông một ngôi chùa lớn, khang trang, với đầy đủ bổng lộc và quyền uy. Ông từ chối tất cả. Thế là ông chọn ở tù. Ông chỉ bị xử 20 tháng tù ở. Ra tù, ông được Thụy Điển nhận làm người tị nạn cộng sản theo hồ sơ đã thiết lập ở Nam Vang tháng 6 năm 2002.

Bao nỗi tang thương không riêng gì là những tháng năm đầy gian truân, khốn khổ của Huề thượng Đôn Hậu, mà cũng là thực tế cuộc sống của ông Trí Lực từ sau 30-04-1975 nữa. Phải chăng hai kẻ tu hành cùng mang chung một nghiệp chướng thế gian?

Dư luận về Huề thượng Đôn Hậu

Sau 30-04-1975, Huề thượng Đôn Hậu làm chánh thư ký Viện Tăng Thống. Tại tang lễ, ngày 02-05-1992, Huề thượng Nhật Liên quì gối trình chúc thư của Huề thượng Đôn Hậu và ấn dấu Lưỡng viện cho Huề thượng Huyền Quang. Trong chúc thư, Huề Thượng Đôn Hậu ủy nhiệm Huề thượng Huyền Quang điều hành Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhứt cho tới khi nào có đủ điều kiện thuận lợi tổ chức được Đại hội VIII. Năm 1977, Đại hội VII đề cử Huề thượng Đôn Hậu làm chánh thư ký Viện Tăng Thống. Khi đệ II Tăng Thống, Huề thượng Giác Nhiên viên tịch, chiếu theo Hiến chương, Huề thượng Đôn Hậu kiêm nhiệm xử lý Viện Tăng Thống.

Cho tới ngày viên tịch, Huề thượng Đôn Hậu là một vị tiền nhiệm của Huề thượng Huyền Quang và Quảng Độ, hai vị kế nghiệp lãnh đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhứt ngày nay.

Qua vài bài báo đăng tải đây đó trong thời gian qua, Huề thượng Đôn Hậu bị phê phán là đã đi theo Việt cộng. Gần đây, quyển sách Biến động miền Trung của ông Liên Thành xuất hiện tiếp theo vài bài báo viết về nhạc sĩ Trịnh Công Sơn của ông cáo buộc Huề thượng Đôn Hậu theo Việt cộng gay gắt hơn. Ông Liên Thành, với tư cách thiếu tá cảnh sát đặc biệt Huế, trưng dẫn nhiều “bằng chứng theo hồ sơ cảnh sát đặc biệt” để củng cố quan điểm của ông. Những dẫn chứng của ông Liên Thành đầy đủ chi tiết như lý lịch cá nhân đương sự, ngày giờ, địa điểm hoạt động, những quan hệ với người khác... Theo tiết lộ của những nguồn thông tin này, thì hầu như tất cả thầy chùa gốc miền Trung đều hoạt động cho Việt cộng trong thời gian qua.

Quyển sách Biến động miền Trung của ông Liên Thành được một bộ phận độc giả ở hải ngoại nhiệt liệt hưởng ứng đã làm thỏa mãn tác giả về mặt thành công, tuy viết sách vốn không phải là khả năng sở hữu của ông Liên Thành từ trước giờ như chính tác giả nhiều lần thừa nhận trong các buổi giới thiệu sách.

Trong những dư luận phản bác, chúng tôi để ý bài trả lời của ông Nguyễn Đắc Xuân, với tư cách một Việt cộng đảng viên do chính ông xác nhận, người cùng thế hệ với ông Liên Thành và có mặt cùng thời điểm và tại chỗ, về những điều ông Liên Thành viết về ông ấy, cũng với “hồ sơ cảnh sát đặc biệt”, chi tiết cụ thể về thời gian, địa điểm và sự việc. Nhưng theo ông Nguyễn Đắc Xuân, với dẫn chứng nhân chứng sống còn ở hải ngoại, thì những chi tiết của ông Liên Thành viết về ông lại không đúng sự thật phải làm cho chúng ta suy nghĩ lại về những lời của ông Liên Thành tố cáo các vị tu sĩ Phật giáo trong sách Biến động miền Trung. Tại sao cho tới ngày nay, bỗng nhiên ông Liên Thành viết sách, nhắc lại giai đoạn nhiễu nhương ấy và cực lực tố cáo các chức sắc Phật giáo miền Trung?

Vậy những điều khác ông Liên Thành nói thiếu “hồ sơ cảnh sát đặc biệt” liệu có đủ giá trị thuyết phục không? Mà hồ sơ của ông Liên Thành là hồ sơ nào? Hồ sơ thiệt của cảnh sát mà ông Liên Thành mang theo được lúc chạy? Hay thứ hồ sơ mà ông Liên Thành kín đáo có được lúc gần đây?

Trước đây, ông Lữ Giang ở Californie, Huê kỳ, viết quyển sách “Đằng sau những cuộc thánh chiến” công kích tu sĩ Phật giáo đi theo Việt cộng. Cái tựa "Thánh chiến" gợi lại những cuộc chiến tranh tôn giáo ở Âu châu của Công giáo La-mã đã khiêu khích sự tò mò của độc giả tìm đọc để cho biết ở Việt Nam cũng có thánh chiến nữa? Nên nhớ suốt dòng lịch sử, các hệ tư tưởng Lão, Nho hay Phật giáo lần lượt tới Việt Nam đều hòa nhập vào nhau nhuần nhuyễn trở thành văn hóa dân tộc. Kịp đến Thiên Chúa giáo sau này, vào thế kỷ XVI đã có mặt giáo sĩ truyền đạo, tới Việt Nam tuy trong hoàn cảnh lịch sử gay cấn, vẫn trở thành một đóng góp hài hòa bổ sung cho dòng văn hóa Việt Nam thêm phong phú. Tức ở Việt Nam hoàn toàn chưa bao giờ có xảy ra những xung đột mang tính cách hay màu sắc tôn giáo. Vả lại, trong lịch sử mấy ngàn năm của Phật giáo chưa hế có thánh chiến, tuy Phật giáo cũng có nhiều hệ phái.

Thế mà có những người gốc thẩm phán như ông Lữ Giang, vội quên đi thiên chức thẩm phán của mình, đã dám nghĩ ra "Những cuộc thánh chiến ở Việt Nam" sặc mùi La-mã thời Trung cổ? Khi viết lấy được những điều quái đản này, hẳn ông Lữ Giang nuôi dưỡng những hậu ý gì thầm kín?

Về ông Lữ Giang, một nhà báo kỳ cựu, người Bắc, lớn tuổi, tín đồ Thiên Chúa giáo, ở Los Angeles nói với chúng tôi sách của ông Lữ Giang được tái bản tới lần thứ 5. Sách loại này bán chạy có làm chúng ta ngạc nhiên không?

Việt cộng luôn luôn dứt khoát không đội trời chung với tôn giáo khi tôn giáo không bị họ khống chế. Tìm cách ám hại, bức bách tôn giáo vốn là chánh sách xuyên suốt về tôn giáo của đảng Cộng sản Hà Nội từ xưa nay. Tuy nhiên, cũng không hẳn thiếu những trường hợp việt cộng Hà Nội tìm cách thỏa hiệp với thế lực tôn giáo khi quyền lợi của đôi bên được thỏa mãn mặc tình cho quyền lợi đất nước Việt Nam bị tổn hại về lâu về dài. Chúng ta đừng vội quên chánh quyền nào cũng chỉ là giai đoạn. Riêng chế độ cộng sản Hà Nội ngày nay đang chờ đi hết chu trình tồn tại của nó.

Hoàn cảnh lịch sử chánh trị Việt Nam từ sau 1954 vô cùng phức tạp, do các cường quốc với thế đồng minh gây áp lực theo quyền lợi của họ.

Phía Việt Nam thiếu người lãnh đạo. Chỉ có người của thời cuộc được đưa lên nắm chánh quyền. Những mâu thuẫn địa phương, di sản của dòng lịch sử lập quốc trên một địa lý dài mà hẹp, những tranh chấp phe cánh, não trạng người cầm quyền hẹp hòi do quá khứ phục vụ quan trường, vận dụng ảnh hưởng tôn giáo cho mục tiêu chánh trị cầm quyền…, tất cả đã di hại cho đến tận ngày nay, đã không tránh khỏi làm mờ nhạt đi những nỗ lực tranh đấu khôi phục đất nước của những người Việt Nam ái quốc lương thiện, mà Biến động miền Trung là một hiện tượng cuối mùa. Chúng tôi xin quả quyết Phật giáo không có thời mạt pháp. Chỉ có con người đánh mất đi con người thiệt của mình, cái tự tánh. Khi con người thiệt bị đánh mất, thì Phật, Chúa cũng không còn. Con Phật (Phật tử) trở thành “con của ma”. Con của Chúa trở thành con của Sa-tăng thôi.

Và về mặt xã hội, có điều may mắn là chưa có ai thấy thầy chùa đi làm cộng sản, mà chỉ có cộng sản lãnh nhiệm vụ đi làm thầy chùa để phá đạo, hủy diệt lòng tin tôn giáo để phục vụ cộng sản.

Mời bạn đọc mở sách ra để lần bước theo dõi, chia sẻ với tác giả Trí Lực những nỗi tang thương của chính tác giả và đồng thời của ân sư của ông.

Kính bút
Nguyễn Văn Trần

Ấn bản này có lược bỏ vài chữ ở đây, với sự đồng ý của người giới thiệu.


Thay lời tựa


Đã gần bốn mươi năm trôi qua dưới chế độ cộng sản độc tài toàn trị, kể từ khi bộ đội miền Bắc cưỡng chiếm miền Nam Việt Nam vào năm 1975, chính quyền cộng sản đã đặt ách thống trị hà khắc lên toàn dân Việt, chưa có một ngày nào dân chúng hai miền Nam Bắc được hít thở bầu không khí tự do. Hẳn chúng ta còn nhớ, hàng trăm hàng nghìn nhà tù lớn nhỏ do chính quyền cộng sản lập ra để giam hãm và cưỡng bức lao động khổ sai các viên chức dân sự và quân sự của chế độ Việt Nam Cộng Hòa, với tên gọi là trại tập trung cải tạo.

Từ cấp quận, đến cấp tỉnh hoặc thành phố đều có trại giam, số lượng không biết bao nhiêu mà tính. Ngoài ra, còn có rất nhiều trại giam trực thuộc bộ Công an, tất cả đều đặt dưới sự quản lý của cục V26. Có bao nhiêu tù nhân bị giam giữ cải tạo sau tháng tư đen 1975? Khi ký giả Jean Claude Labbe của tuần báo Paris Match - số ra ngày 22.09.1978 - hỏi ông Thủ tướng Phạm Văn Đồng về số lượng tù cải tạo, ông Đồng không ngần ngại trả lời rằng, chính phủ chúng tôi đã trả tự do cho hơn một triệu người được trở về với gia đình họ!!

Ngày 25 tháng 1 năm 2006, Quốc hội châu Âu tại Strasbourg đã thông qua Nghị quyết 1481 lên án tội ác chống lại loài người của các chính thể cộng sản Liên Xô và các quốc gia khác như Trung Quốc, Việt Nam, Cu Ba, Bắc Triều Tiên… Tội ác chà đạp quyền con người một cách có hệ thống của chủ nghĩa cộng sản cần phải đem ra xét xử tại tòa án quốc tế.

Đức Phật chỉ dạy nguyên lý vô thường, vũ trụ vạn vật trên thế gian chỉ là hư ảo. Kiếp nhân sinh mong manh tụ tán và hoàn cảnh đổi thay khác nào dâu bể. Bể dâu là nghĩa của hai chữ tang thương, nói trọn câu là tang điền thương hải, thửa ruộng dâu bỗng chốc hóa thành biển xanh.

Bao nỗi tang thương là tập hồi ký ghi lại trung thực những sự biến tại ngôi chùa Thiên Mụ cố đô Huế, là nơi tôi xuất gia tu học từ thuở nhỏ, cho đến khoảng thời gian phục hoạt Giáo hội, sau tang lễ bổn sư chúng tôi là trưởng lão Hòa thượng Thích Đôn Hậu viên tịch năm 1992. Chính quyền cộng sản Việt Nam đã đang tâm đàn áp nghiệt ngã chư tôn Giáo phẩm thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, điển hình là Hòa thượng Thích Thiện Minh bị tra tấn đến chết trong trại giam ở đường Nguyễn Trãi, Sài Gòn; hai vị Hòa thượng Thích Huyền Quang và Thích Quảng Độ bị đưa đi quản thúc lưu đày qua bao tháng năm dằng dặc.

Sau khi mãn hạn tù vì những hoạt động phục hồi quyền sinh hoạt pháp lý của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, bản thân tôi vẫn bị cộng quyền tiếp tục đàn áp vô cùng nghiệt ngã, các quyền sống căn bản của một con người hầu như mất trắng, bao nỗi thăng trầm vinh nhục đè nặng lên kiếp sống đọa đày! Không còn sự chọn lựa nào khác, tôi đã bạch lên chư Tăng làm lễ xả giới đàng hoàng và đành chọn con đường lánh nạn cộng sản. Thế nhưng, bạo quyền cộng sản nào có nương tay, chúng ra lệnh cho đám công an mật vụ đang hoạt động tình báo tại xứ Chùa Tháp tổ chức bắt cóc tôi giữa phố chợ đông người, mặc dầu tôi đã được Cao ủy tỵ nạn Liên Hiệp Quốc bảo vệ quyền tỵ nạn chính trị. Toán mật vụ áp giải tôi trở lại biên giới Việt Miên qua cửa khẩu Mộc Bài, rồi giao cho đám công an đứng chờ sẵn. Chính quyền cộng sản tiếp tục giam cầm tôi một cách nghiêm ngặt tại trại giam B34, Sài Gòn. Suốt hơn cả năm trời bặt vô âm tín, khác nào bóng chim tăm cá, người thân và bạn bè của tôi chẳng hề hay biết, rằng tôi còn sống hay là đã chết. Cao ủy Nhân quyền Liên Hiệp Quốc, các tổ chức nhân quyền và chính phủ thuộc cộng đồng các quốc gia dân chủ không ngừng lên tiếng đòi hỏi nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam hãy trả lời về vụ bắt cóc phi pháp này. Thế nhưng nhục nhã làm sao, cả một thể thống quốc gia bịp bợm chối cãi, rằng họ không hề hay biết gì về vụ việc mất tích này.

Khi giáo sư Võ Văn Ái - giám đốc Phòng Thông tin Phật giáo Quốc Tế - lên tiếng báo động và cáo buộc cơ quan mật vụ cộng sản Việt nam bắt cóc tôi tại Nam Vang đêm 25 tháng 7 năm 2002, thì người phát ngôn bộ Ngoại giao nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam tại Hà Nội - bà Phan Thúy Thanh - bác bỏ bản tin và trả lời với các hãng thông tấn báo chí quốc tế, rằng đây là sự vu khống bỉ ổi. Cuối cùng, trước nhiều áp lực, cộng quyền đành phải thừa nhận và đưa tôi ra xét xử với một bản án hai mươi tháng tù với tội danh "Trốn đi nước ngoài nhằm chống chính quyền nhân dân".

Ấn bản Bao nỗi tang thương lần đầu tiên hân hạnh được nhóm Thiện Ý tại Pháp quốc ấn hành và kính biếu đến quý độc giả xa gần. Vừa qua, trong dịp Hội Phật tử người Việt tỵ nạn tại Cộng hòa Liên bang Đức tổ chức Đại lễ Vu Lan thắng hội - Phật lịch 2555 - tôi được duyên lành sang tham dự và góp phần cầu nguyện. Ngoài lễ kỳ siêu pháp giới đa sinh phụ mẫu, trong dịp này, quý Phật tử ở Đức quốc đã không quên công ơn của các bậc anh hùng tử sĩ, vị quốc vong thân, các chiến sĩ đã anh dũng hy sinh trong các trận hải chiến ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, đạo tràng thành tâm cầu nguyện siêu độ liệt vị anh linh. Hiện nay Trung Quốc đã xâm chiếm hai quần đảo này, mà cụ thể là, tập đoàn độc tài toàn trị cộng sản tại Hà Nội đã bán đứng đất liền và biển đảo cho quan thầy Bắc Kinh.

Phật sự trong mùa Vu Lan báo hiếu tại Đức quốc viên mãn trong niềm hỷ lạc của quý đạo hữu Phật tử . Nhiều vị thân hữu có nhã ý muốn tái bản tập hồi ký Bao nỗi tang thương, đó là khởi duyên để ấn bản lần thứ hai được trở thành hiện thực và trân trọng kính biếu quý độc giả.

Về nội dung, so với bản in đầu tiên, lần này chúng tôi có viết thêm lời tựa, sửa chữa vài ý văn và bổ sung một số hình ảnh được lấy từ nguồn trên mạng lưới điện toán toàn cầu.

Tác giả kính nguyện hồi hướng công đức và chân thành cảm ơn quý vị thân hữu trong nhóm Thiện Ý, Hội Phật tử người Việt quốc gia tỵ nạn tại Cộng hòa Liên bang Đức, quý vị thân hữu trong cộng đồng người Việt quốc gia tỵ nạn tại châu Âu, châu Úc và Hoa Kỳ, cùng quý thiện tín đạo hữu gần xa, đã hoan hỷ phát tâm đóng góp tịnh tài, cũng như đem hết đạo tình hổ trợ để hoàn thành ấn phẩm này.

Sự hiểu biết về những giai đoạn lịch sử của đất nước, người viết chẳng khác nào lấy ống dòm trời. Thiển nghĩ, thiên hồi ký cũng chỉ là lời quê dông dài góp nhặt, thuật lại lắm nỗi thăng trầm hay sự đổi thay chớp nhoáng tựa hồ bức tranh vân cẩu, hoặc như cảnh bãi biển nương dâu. Kính trông mong chư vị cao minh thức giả hoan hỷ lượng thứ và sẵn sàng chỉ bày cho những điều còn thiếu sót, ngõ hầu làm sáng tỏ lịch sử. Nếu được như thế, thật hân hạnh lắm thay!

Thụy Điển, buổi tàn thu 2011

Tác giả cẩn chí

1. Mái chùa xưa
H
ơn bốn trăm năm lịch sử, kể từ khi Ðoan Quốc Công Nguyễn Hoàng vào trấn thủ đất Thuận Hóa, dựng lập chùa Thiên Mụ vào năm 1601, ngôi cổ tự này đã trải qua bao cuộc bể dâu, sao dời vật đổi.

Hòa thượng Thích Ðôn Hậu nối dòng pháp Lâm Tế đời thứ bốn mươi hai, pháp danh Trừng Nguyên, pháp tự Giác Thanh, ôn là đệ tử của Tổ sư húy Thanh Ninh, tự Tâm Tịnh, khai sơn Tổ đình Tây Thiên, cố đô Huế. Là một vị Tăng xuất chúng trong chốn thiền môn, ôn được Giáo hội đương thời bổ nhiệm trú trì quốc tự Linh Mụ vào khoảng năm 1945, thời điểm mà đất nước Việt Nam bước qua giai đoạn lịch sử cực kỳ đen tối - Việt Minh cướp chính quyền. Chẳng bao lâu, thực dân Pháp quay trở lại Việt Nam, Việt Minh rút lên chiến khu Việt Bắc, tiếp tục chín năm kháng chiến chống Pháp. Ðến năm 1954, hiệp định Genève được ký kết, dòng sông Hiền Lương ở vĩ tuyến 17 chia đôi hai miền Nam Bắc, chế độ cộng sản cai trị miền Bắc, chính thể đệ nhất cộng hòa ở miền Nam.

Ôn đảm nhiệm trụ trì quốc tự Linh Mụ trong cảnh hoang tàn, bởi một thời đây là chiến địa. Năm 1947, thực dân Pháp càn quét vùng này, chúng tình nghi ôn hoạt động cho Việt Minh nên đã bắt ôn cùng với hai người nữa rồi chuẩn bị hành quyết. Quân lính Pháp buộc người này đào huyệt chôn người kia, vụt chốc hai người ngã gục. Ðến lượt ôn là người sau cùng, họng súng của chúng chực chờ nhả đạn, hầu kết liễu oan uổng mạng sống của một nhà sư.

(Từ đây trở xuống, tôi dùng chữ ôn tức là Hòa thượng Thích Ðôn Hậu, trú trì chùa Linh Mụ, Huế. Ðây là từ xưng hô rất mực tôn kính của Tăng Ni và Phật tử xứ Huế để bạch với các bậc Hòa thượng, hoặc các vị trưởng lão tôn túc.) May thay! Giữa lúc tính mạng của ôn như nghìn cân treo sợi tóc, thì đức Từ Cung được tin cấp báo, lập tức can thiệp với tòa Khâm sứ Pháp tại Huế, yêu cầu ngưng ngay cuộc hành hình thầy Ðôn Hậu. Chính phủ Pháp đành phải nhượng bộ, bởi lẽ họ cũng chẳng có bằng cớ gì để chứng minh rằng, ôn hoạt động cho Việt Minh. Thế là, cây cỏ đồi Hà Khê dường như bừng sống dậy, nước Bình Hồ không thể nào nhuốm máu oan khiên! Thoát đại nạn trong đường tơ kẻ tóc, ôn Linh Mụ xem đức Từ Cung chẳng khác nào một vị cứu tinh cao cả, ân nghĩa sâu nặng ấy, ôn luôn luôn canh cánh bên lòng. Sau này, thỉnh thoảng ôn đến cung An Ðịnh để thăm hỏi sức khỏe của bà, hai vị hàn huyên tâm đắc.

Còn nhớ hôm nào, sau buổi giảng kinh Di Ðà sớ sao cho Tăng Ni ại Phật học đường Báo Quốc, nghe tin đức Từ Cung tạ thế, ôn xúc động trước tin buồn đột ngột. Hôm ấy, mưa gió dầm dề, nước sông Hương tràn bờ, dòng nước lũ chảy xiết từ ngọn nguồn xuôi về cửa biển Thuận An, thôn Kim Long và Xuân Hòa nằm dọc ven sông ngập chìm trong dòng nước bạc. Khi ấy, ôn bảo tôi đi đò ngược dòng theo đường Kim Long lên Linh Mụ để lấy một ít thuốc men và đồ dùng rồi trở về chùa Báo Quốc. Ôn ở lại đây để ngày mai cùng Hòa thượng Thích Thanh Trí đến cung An Ðịnh làm lễ phúng điếu và tiễn đưa linh cữu Hoàng Thái Hậu đến nơi an nghỉ cuối cùng.

2. Chinh chiến và sự chia lìa

Chứng tích tội ác Cộng sản - Oan hồn xứ Huế trong cuộc thảm sát Tết Mậu Thân 1968.

Hẳn người dân xứ Huế không ai là không kinh hoàng mỗi khi hồi tưởng thảm cảnh Tết Mậu Thân (1968). Quân cộng sản miền Bắc chiếm giữ cố đô gần một tháng trời. Binh lửa ngút ngàn, cảnh vật tang thương! Và còn biết bao người bị chôn sống một cách thê thảm, nhiều nhất là ở vùng Bãi Dâu, Gia Hội.

Ngày ngày có những người vợ đi kiếm xác chồng, những đứa con tìm nhận xác cha. Than ôi! Nỗi oán hờn chất ngất, lời lẽ nào kể sao cho xiết; niềm đau thương tràn ngập, bút mực nào viết lên cho tận! Sau khi cố đô Huế được bình định trở lại, hàng trăm thi thể bị trói gô được khai quật từ các hầm hố, rồi đưa về an trí tại trường trung học Gia Hội. Giáo hội tỉnh nhà công cử Thượng tọa Thích Chơn Thức tại Tổ đình Tường Vân và ban kinh sư làm lễ siêu độ vong linh và chẩn tế cô hồn. Mấy hôm sau, dân chúng cố đô ngậm ngùi tiễn đưa những quan tài không ai thừa nhận đến nơi an nghỉ nghìn thu tại nghĩa trang Ba Ðồn.

Khoảng năm 1976, công trình đào thủy lợi nam sông Hương của chính quyền cộng sản đã xóa sổ nghĩa trang này, địa danh Ba Ðồn chìm vào quên lãng. Không còn cảnh hằng năm các đoàn thể Phật tử đến nơi đây thắp hương tưởng niệm và lập đàn chay siêu độ hồn oan, ngõ hầu an ủi phần nào các vong linh bất hạnh, làm ấm lòng kẻ quá vãng chốn tuyền đài. Giờ đây, nghĩa trang Ba Ðồn, nơi an táng những người bị chôn sống vào đầu xuân Mậu Thân không còn nữa, đảng Cộng sản đương quyền đã cố tình xóa đi vết tích của một thời huynh đệ tương tàn, bởi nơi đây như là một chứng tích lịch sử về tội ác chiến tranh, một thảm cảnh đau thương trong cuộc nội chiến giữa hai miền Nam Bắc, giữa chủ nghĩa cộng sản và chính thể dân chủ tự do.

Thấm thoát đã gần bốn mươi năm trôi qua, chiến cuộc mùa xuân Mậu Thân hãy còn làm cho người dân xứ Huế bàng hoàng mà cứ ngỡ như mới xảy ra hôm nào!

Ngày mồng hai Tết Nguyên đán xuân Mậu Thân, chiến sự bắt đầu nổ ra ác liệt, dân chúng ở các vùng lân cận như An Ninh Hạ, An Ninh Thượng, Trúc Lâm, An Bình, Long Hồ… nườm nượp tản cư đến chùa Linh Mụ. Ngôi Ðại hùng bảo điện rộng năm gian hai chái không đủ cho mọi người trú ẩn; tam quan, nhà Hộ pháp, nhà bia, lầu chuông trống ở phía trước đầy ắp những người; phía sau là điện Ðịa Tạng, Quán Âm cũng không còn chỗ trống. Không những khi xảy ra chiến sự mọi người mới tìm chốn nương thân ở cảnh chùa, mà còn năm nào bão lụt lớn, dân chúng cũng tìm đến Linh Mụ để lánh nạn, bởi địa thế ngôi chùa tọa lạc trên ngọn đồi cao.

Vào đầu xuân năm ấy, tiết trời xứ Huế rét mướt, cảnh cơ hàn đè nặng lên cuộc sống người dân thời ly loạn. Ôn Linh Mụ san sẻ cho mọi người từng lon gạo, nắm rau, khoai sắn trong vườn chùa đã nhổ sạch mà chẳng đủ lót dạ cho đàn trẻ con nheo nhóc. Lúc ấy, quân cộng sản miền Bắc đang kiểm soát vùng này, chúng cử người đến gặp ôn, buộc phải mở cửa tháp Phước Duyên cho chúng treo cờ Mặt trận giải phóng miền Nam trên tầng thứ bảy. Hầu như ôn lường trước được hậu quả thảm khốc, nên mặc dù họ yêu sách năm lần bảy lượt, nhưng ôn vẫn một mực chối từ.

Ôn nêu lý do rằng, hiện giờ trong chùa đang có hàng trăm đồng bào đến tá túc, nếu máy bay quân đội đồng minh phát hiện cờ địch quân trên ngọn tháp, thì nơi đây không làm sao tránh khỏi những trận mưa bom. Chùa tan nát không nói làm gì, nhưng hãy còn bao nhiêu mạng sống dân lành vô tội.

Ôn viện lẽ nhà chùa không cất giữ chìa khóa tháp, các ông muốn mở cửa tháp thì cứ việc liên hệ với văn phòng Giáo hội tại chùa Từ Ðàm. Ôn nhất mực chối từ, thế là bộ đội cộng sản không sao thuyết phục được tấm lòng vị tha độ lượng của bậc cao Tăng.

Vào đêm 19 tháng giêng năm ấy, mưa phùn lạnh buốt thấu xương, chứng bệnh dạ dày mãn tính của ôn tái phát, lại thêm cơn hen suyễn hành suốt đêm ngày. Liêu phòng bên trái ngôi chính điện chùa Linh Mụ tuy đã đóng kín các cửa để ngăn chặn những cơn gió lùa, thế nhưng không làm sao dứt được những cơn ho ngất từng hồi, lại thêm chứng xuất huyết dạ dày đang hành hạ thân tứ đại của ôn. Mọi người trong chùa thay phiên nhau chăm sóc ôn tận tình.

Hoàng hôn phủ xuống vạn vật, từng tiếng chuông ngân hòa lẫn với tiếng đại bác trong đêm dội về thành phố, làm tăng thêm nỗi buồn man mác trong lòng người. Ðêm dần khuya, bỗng nhiên bên ngoài liêu phòng có tiếng gõ cửa, ôn bèn hỏi:

- Ai đó? Có việc gì giữa đêm hôm khuya khoắt thế này?

Bên ngoài, một giọng nói người miền Bắc vọng vào:
- Bẩm cụ, chúng cháu là bộ đội giải phóng, nay xin vào gặp cụ Ðôn Hậu.

Không có cách nào từ chối, ôn ra hiệu cho chú Tâm Kiến đốt đèn rồi ra mở cửa. Vài người mặc trang phục bộ đội cộng sản miền Bắc lần lượt bước vào phòng, vai mang súng AK. Sau khi mời ngồi, ôn cất tiếng hỏi:

- Các ông cần gặp tôi có chuyện gì?

- Bẩm cụ, chúng cháu vâng lệnh ban chỉ huy vùng mới giải phóng, đến mời cụ đêm nay xuống đình làng Xuân Hòa để họp.

- Họp hành gì thì để sáng mai hẵng tính, tôi đang bị xuất huyết dạ dày và lên cơn suyễn nên không thể nào đi được.

- Bẩm cụ, xin cụ gắng sức đi một chốc rồi về ạ.

Ôn nhất định từ chối, các người ấy bèn từ giã ra về. Khoảng nửa giờ sau, toán bộ đội quay trở lại dường như đông hơn, họ gõ cửa đòi vào. Ôn tiếp họ và vẫn dùng lời lẽ chối từ giống như lần trước. Một người trong số ấy hình như là cấp chỉ huy dùng lời lẽ thuyết phục ôn, rằng họ chỉ mời ôn về đình làng Xuân Hòa để họp bàn việc dân một chốc, rồi sẽ tiễn ôn trở về chùa ngay. Cuối cùng, không thể nào trái ý họ, ôn đành miễn cưỡng choàng áo ấm vào người, rồi bảo chú Tâm Kiến đi theo và không quên nhắc chú ấy soạn một ít thuốc men.

Ngoài cửa, dưới giàn hoa lý, có mấy người khác đứng chờ và đã chuẩn bị chiếc võng có đòn gánh. Họ mời ôn nằm lên võng, phủ kín tấm vải dù che mưa. Ðoàn người lặng lẽ gánh ôn ra hướng cửa tả chùa Linh Mụ rồi mất hút trong bóng đêm.

Trời vẫn mưa lâm thâm, cơn gió lùa thấm lạnh. Xa xa, vài đóm hỏa châu lập lòe trong màn đêm u tịch, ánh lửa từ từ hắt xuống dòng Hương rồi vụt tắt. Tiếng súng đì đùng từ phía làng Nguyệt Biều bên kia sông vọng lại, hòa lẫn tiếng côn trùng rả rích canh thâu. Ðâu đây xao xác tiếng gà gáy đầu báo hiệu giờ gióng đại hồng chung sắp đến.

Thời gian lặng lẽ trôi giữa dòng đời bất tận…

3. Ngày hội ngộ và những hệ lụy của nhà sư

Năm tháng dần dà, ngày lại ngày qua… Bóng dáng bậc thầy vẫn biền biệt, liêu phòng như đã vắng tăm hơi. Có ai ngờ một lần ôn cất bước hôm nào trong tình thế chẳng đặng đừng, mà ngày trở lại thì quá xa vời vợi. Hoa anh đào mỗi năm đều nở rộ, hồng thắm cả vườn chùa. Mai vàng, mai trắng, khóm cúc, đóa hồng cứ thi nhau trổ hoa khoe sắc, khi mỗi lần Tết đến xuân sang. Hoa tường vi, hoa lài, hoa mộc thì chẳng có người nào hái ướp trà vào mỗi buổi sớm tinh sương, khi ánh dương chưa lấp ló.

Ðã mấy mùa đông tàn xuân đến, mà tin nhạn vẫn chẳng thấy hồi âm. Bởi vậy, Hội đồng Viện Hóa Ðạo công cử Hòa thượng Thích Mật Nguyện - trú trì chùa Linh Quang, Huế - giữ chức vụ quyền Chánh đại diện miền Vạn Hạnh, thay thế vào chức vị của ôn lúc bấy giờ. Giáo hội Phật giáo tỉnh nhà quyết định bổ nhiệm Thượng tọa Thích Trí Lưu đảm nhiệm trú trì ngôi quốc tự, tiếp tục chăm lo Phật sự và Tăng chúng trong chùa.

Thế rồi một ngày kia, mọi người nghe được giọng nói ôn Linh Mụ trên sóng phát thanh của đài tiếng nói Hà Nội ở miền Bắc, tin mừng ôn vẫn còn sống lan nhanh. Thế mới biết rằng, cộng sản Bắc Việt đã lừa dối ôn một cách trắng trợn, khi họ đến mời ôn đi họp ở địa điểm cách chùa Linh Mụ non chừng nửa cây số. Thế nhưng chính thật ra, chúng đã đưa ôn trải qua những chặng đường Trường Sơn, trèo đèo lội suối, vượt thác băng ngàn, trên bom dưới đạn, cuối cùng ôn cũng đặt chân đến tận đất Bắc một cách bình yên, làm thỏa mãn ý đồ chính trị của Hà Nội. Cộng sản miền Bắc đã lợi dụng uy tín lãnh đạo của ôn, gần tám chục phần trăm dân chúng miền Nam theo đạo Phật, sự có mặt của ôn ở miền Bắc, khả dĩ tạo được lợi thế trong mưu đồ chính trị của Hà Nội, với chiêu bài giải phóng miền Nam.

Trong tuồng chính trị, chức vụ này hay vai vế nọ mà chính quyền cộng sản Bắc Việt gán ép cho ôn - một vị sư mà thâm tâm của ngài chỉ thuần túy chăm lo đạo pháp - bởi trong vòng kiềm tỏa của họ, ở vào hoàn cảnh thời bấy giờ, nên ôn không thể không nhận lời.

Tháng tư đen năm 1975, quân cộng sản miền Bắc cưỡng chiếm miền Nam Việt Nam, chế độ Sài Gòn sụp đổ. Mấy tháng sau, ôn Linh Mụ từ miền Bắc trở lại mái chùa xưa, ròng rã hơn bảy năm trường biền biệt. Chính quyền cắt đặt thêm hai người ở kế cận ôn, ông Ðông làm công an và ông Phạm Văn Ðể làm y sĩ. Tuy bề ngoài họ có nhiệm vụ bảo vệ và chăm sóc sức khỏe cho ôn, song kỳ thật hai người này đảm nhận vai trò giám sát mọi sinh hoạt của ôn một cách hết sức chặt chẽ.

Gặp lại bậc thầy đức độ khả kính sau bao năm xa cách, ai nấy đều mừng mừng tủi tủi. Cỏ cây hoa lá dường như cũng tươi tốt hơn lên, những cây vả trong vườn chùa thi nhau đơm trái sum sê đầy gốc, hình như tất cả đều lấy lại được sức sống từ buổi ôn về.

Năm 1976, chính quyền cộng sản Việt Nam tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội khóa IV, lại thêm một biến cố nữa trong đời, khi ôn bị ép buộc phải ra ứng cử. Ngày còn ở Hà Nội, ôn đã từng nói với các nhà lãnh đạo ở đây rằng, khi nước nhà độc lập thống nhất, thì ôn sẽ trở về cương vị cũ của mình là một nhà tu thuần túy, chỉ lo gánh vác mỗi một việc đạo, chứ không màng đến chuyện đời. Thế mà hôm nay, chính quyền tỉnh Bình Trị Thiên nhiều lần đến chùa vận động ôn ra ứng cử, ôn viện dẫn nhiều lý do để chối từ. Cuối cùng họ nói đây là lệnh của trung ương, ôn không nên thoái thác.

Nhiều lúc ôn nói nửa đùa nửa thật, rằng giá như bây giờ mình chết được thì khỏe biết ngần nào. Sự lòng biết tỏ cùng ai, nhiều đêm ôn trằn trọc thâu canh, nỗi khổ tâm đè nặng lên người. Nhưng rồi suy đi tính lại, chẳng còn cách nào khác, ôn miễn cưỡng ra ứng cử, mặc cho thế sự xoay vần.

Kết quả ôn trúng cử đại biểu Quốc hội khóa IV, thuộc đơn vị bầu cử tỉnh Bình Trị Thiên, với tỷ số phiếu bầu thấp nhất, kém xa số phiếu của một đại biểu người dân tộc thiểu số. Thật quá mỉa mai! Lẽ nào cử tri xứ Huế mà phần đông là Phật tử lại đánh mất niềm tin đối với một vị thầy lãnh đạo tinh thần có đủ uy tín như ôn!?

4. Vị pháp vong thân

Năm 1978, khi hay tin Thượng tọa Thích Thiện Minh bị bức tử trong nhà tù X4, đường Nguyễn Trãi, Sài Gòn, ôn Linh Mụ bàng hoàng xúc động, cơn hen suyễn bột phát, ho suốt đêm ngày. Cách đây không lâu, ôn nhận được bức thư vấn an và tâm sự của thầy Thích Thiện Minh từ Sài Gòn gửi ra, thầy cho ôn biết rằng, tình hình Giáo hội đang đứng trước thử thách lớn lao và vô cùng căng thẳng. Nay lại nghe tin thầy bị tra tấn đến chết trong lao tù cộng sản, thi thể hiện được quàn tại trại giam Hàm Tân, tỉnh Phan Thiết.

Hôm ấy, vào một buổi sớm mai đầy sương thu và gió bấc, sau giờ công phu khuya, tôi vào liêu để dọn dẹp và pha trà hầu ôn như thường lệ. Ôn bảo tôi hãy đọc lại bức thư của thầy Thích Thiện Minh mà ôn vừa mới nhận được tuần trước. Đến nay, tôi vẫn còn nhớ mãi bài thơ Đăng U châu đài ca của Trần Tử Ngang mà thầy Thích Thiện Minh ghi lại trong bức thư ấy, nỗi lòng của người xưa chẳng khác nào tâm sự của thầy lúc bấy giờ:

Tiền bất kiến cổ nhân,
Hậu bất tri lai giả.
Niệm thiên địa chi du du,
Độc sảng nhiên nhi thế há!


Tạm dịch:

Trông về trước, người xưa chẳng thấy,
Ngoảnh lại sau, đâu biết người sau.
Ngẫm hay trời đất dài lâu,
Mình ta tuôn chảy lệ sầu chứa chan!

Hòa thượng Thích Trí Thủ - Viện trưởng Viện Hóa Ðạo, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất - được chính quyền thông báo và bằng lòng cho ngài đến thăm. Hòa thượng yêu cầu được đem nhục thân Thượng tọa Thích Thiện Minh về Sài Gòn an táng, nhưng chính quyền nhất mực chối từ.

Trước biến cố đau thương đó, sau khi suy tính kỹ lưỡng, ôn quyết định gửi đơn từ chức đại biểu Quốc hội, nhằm tỏ thái độ cực lực phản đối đảng Cộng sản đương quyền. Ôn cáo buộc chính quyền cộng sản phải chịu trách nhiệm về cái chết của Thượng tọa Thích Thiện Minh và yêu cầu đưa vụ án ra ánh sáng. Thêm nữa, hãy còn bao nhiêu chư tôn giáo phẩm và tín đồ thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất đang bị cầm tù hay bị quản thúc, nếu nhà nước xét thấy họ có tội thì cứ việc đưa ra xét xử công khai, bằng không hãy tức khắc trả tự do vô điều kiện cho những vị này. Ôn còn đòi hỏi chính quyền cộng sản phải trả lại tất cả những tài sản của Giáo hội đã bị tịch thu, chiếm dụng, trong đó có các cơ sở giáo dục, xã hội, y tế… Ôn tuyên bố, nếu ngày nào chính quyền giải quyết thỏa đáng những yêu cầu này, thì ngày ấy ôn sẽ rút đơn từ chức. Kể từ nay, ôn tuyệt giao mọi vấn đề liên quan đến nhà nước. Bấy giờ, Hòa thượng Thích Mật Hiển tại Tổ đình Trúc Lâm hết sức đồng tình quan điểm của ôn, thỉnh thoảng hai vị gặp nhau, hàn huyên tâm đắc.

Về phía đảng và nhà nước, nhiều lần chính quyền cử người đến chùa Linh Mụ để đàm phán, họ khuyên ôn rút lại đơn từ chức đại biểu Quốc hội. Chính quyền viện lẽ rằng, đất nước đang lâm cảnh chiến tranh biên giới Tây Nam chống lại Pol Pot tại Cam Bốt; Trung Quốc đã xua quân gây chiến tranh và đang chiếm đóng các tỉnh biên giới phía Bắc. Nay sự việc từ chức và những yêu sách của Hòa thượng chỉ làm cho tình hình đất nước đã bất ổn lại càng thêm xáo trộn.

Với bản tính cương nghị, ôn Linh Mụ vẫn giữ vững lập trường và sẵn sàng đón nhận mọi hậu quả có thể đưa đến.

5. Sự đàn áp bởi bạo quyền cộng sản

Vào một buổi chiều thu, mưa bay lất phất, tôi theo ôn bách bộ hướng ra tháp Phước Duyên. Bốn hàng tùng trước chùa thẳng tắp vút ngọn, từng lớp rêu phong phủ lấp tường thành. Trông xuống dòng Hương lặng tờ, đó đây vài ba ngư phủ thả câu. Bên kia sông là làng Nguyệt Biều có những cánh đồng còn xanh lúa mạ, cạnh bờ là những hàng bắp đã trổ cờ phất phơ trước gió hắt hiu. Xa xa, dãy Trường Sơn trùng điệp in bóng mờ trên bầu trời thảm đạm.

Bỗng dưng một người đàn ông nước ngoài độ tuổi trung niên vội vàng bước lên từng bậc cấp cao, người ấy hướng về phía ôn đang đi lững thững cạnh nền cỏ đình Hương Nguyện phía trước bảo tháp. Với nét mặt vui mừng, người khách chào hỏi ôn bằng tiếng Việt một cách sành sỏi, sau đó ông ta lấy ra một chiếc máy ghi âm từ trong túi hành lý của mình. Tôi thấy hai vị nói chuyện ra chiều ưng ý, bèn lảng tránh qua hướng bi đình, nơi đó dựng tấm bia đá khắc bài Thiên Mụ chung thanh của vua Thiệu Trị ngự chế, rồi ngâm nga mấy vần thơ Ðường luật trên văn bia.

Khoảng chừng mươi phút, người khách hớn hở từ giã ra về. Bất chợt có hai người mặc thường phục đi đến, tôi đoán chừng họ là công an, vì hằng ngày tôi thấy họ thường lảng vảng quanh chùa. Hai người ấy chận người khách lại và hình như họ đòi lục soát túi xách để tịch thu cuốn băng ghi âm cuộc nói chuyện với ôn ban nãy.

Tôi theo gót ôn trở vào chùa và chẳng biết chuyện gì đã xảy ra. Tối đến, ôn thong thả thuật lại cho tôi nghe đầu đuôi sự việc về cuộc gặp gỡ người khách lạ ban chiều.

Người ấy là một phóng viên nước ngoài, tìm gặp ôn để hỏi về tình hình chính quyền cộng sản đang gia tăng đàn áp tôn giáo tại Việt Nam. Sau cái chết đầy thương tâm và bí ẩn của Thượng tọa Thích Thiện Minh trong ngục tù cộng sản, dẫn đến việc ôn gửi đơn từ chức, do Ủy ban Bảo vệ Quyền làm Người Việt Nam lên tiếng báo động dư luận quốc tế, nên các tổ chức bảo vệ nhân quyền hết sức quan tâm về việc chính quyền cộng sản đàn áp tôn giáo tại Việt Nam. Hàng Giáo phẩm Hội đồng Lưỡng Viện Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất bị trấn áp thô bạo, có vị thì bị cầm tù, có người bị quản thúc, sách nhiễu; một số khác không còn sự lựa chọn nào khác, nên đành lòng vượt biển đi tìm tự do. Chẳng qua các vị ấy bất đồng quan điểm, bị ép buộc phải gia nhập Giáo hội mới mà nhà nước sẽ dựng lên nay mai, xem như một hội đoàn thuộc Mặt trận tổ quốc Việt Nam, nhằm làm công cụ tuyên truyền chính trị cho đảng Cộng sản.

Ôn trao đổi rất nhiều với phóng viên một cách thẳng thắn và luôn luôn giữ vững quan điểm của mình, quyết tâm bảo vệ Giáo hội truyền thống để không bị lung lạc.

Từng trải bao năm sống trong lòng chế độ cộng sản miền Bắc, có lẽ ôn rút được nhiều kinh nghiệm nên suy nghĩ rằng, sau sự việc ấy không biết chuyện gì sẽ xảy đến cho bản thân. Ôn bảo, phỏng có mệnh hệ gì thì ôn cũng sẵn sàng đón nhận, chẳng có việc gì phải nao núng trong lòng.

Lúc bấy giờ, Tăng chúng trong chùa chỉ còn quý thầy Trí Thành, Trí Tựu, Hải Tạng và tôi, bốn người thay phiên nhau hầu ôn và lo liệu các công việc ở chùa. Riêng thầy Thích Trí Lưu, mọi người thường gọi thân mật là ôn Sự, vì thầy giữ chức tri sự trong chùa, nay tuổi tác đã cao, thầy đã xả bỏ vạn duyên, ngày ngày tinh tiến trì danh niệm Phật. Ðã bao năm qua, thầy không nề hà khó nhọc, đem hết sức mình để duy trì chùa chiền trong những ngày dài xa vắng ôn.

Khoảng một tuần sau, ôn gọi bốn anh em chúng tôi vào liêu để dạy chuyện. Bấy giờ ôn đang lên cơn suyễn nặng, bởi thời tiết xứ Huế thay đổi bất thường. Mấy hôm nay mưa gió bão bùng, cỏ cây xơ xác, trời lạnh buốt thấu xương. Trong tiếng thở khò khè, thỉnh thoảng lại ngắt quãng bởi cơn gió lùa qua khe cửa, ôn ân cần tha thiết dặn dò chúng tôi như trăn trối, từ công việc chùa chiền, đến bổn phận và trách nhiệm đối với Giáo hội truyền thống. Ôn trình bày rành mạch, thứ lớp rõ ràng. Sau cùng, ôn biếu chúng tôi một món quà kỷ niệm. Chúng tôi lễ tạ, ôn lại giải thích ý nghĩa món quà và khuyên bảo chúng tôi. Mãi đến hôm nay, những lời dạy ấy tuồng như vẫn còn khắc sâu vào ký ức của tôi, không bao giờ có thể phai nhòa. Viết đến đây, tôi không sao cầm được nước mắt và nén nỗi xúc động trong lòng.

Giờ này, từ phương xa hướng về cố hương, con thành tâm vọng bái kính lễ Giác linh ôn, cúi đầu cảm niệm ân đức cao dày của các bậc thầy giáo thọ, liệt vị cao Tăng quá khứ, chư vị tôn đức hiện tiền đã từ bi hun đúc pháp thân tuệ mạng cho con. Ngưỡng nguyện quý ngài lân mẫn tha thứ cho kẻ học trò bất hiếu này.

6. Nhà sư viên tịch

Tháng ba Âm lịch năm Nhâm Thân (1992), tiết trời xứ Huế bắt đầu nóng nực báo hiệu sắp ngả sang hè, tiếng ve sầu rộn rã từng hồi như xé tan bầu không khí tịch liêu. Mấy cây phượng trên bến sông nay đã nở một vài chùm hoa đỏ thắm, bảy tầng bảo tháp Phước Duyên sừng sững soi bóng xuống Hương giang như vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt. Thấm thoát mấy năm rồi, từ ngày ôn lâm bệnh nặng sau cơn tai biến mạch máu não. Nhờ sự tận tình cứu chữa của các bác sĩ và y sĩ ở bệnh viện Trung ương Huế, nên đã giành lại sự sống cho ôn.

Nay bệnh tình của ôn tái phát trầm trọng, hay tin ấy, Tăng tín đồ các nơi vân tập về chùa Linh Mụ để hầu thăm ôn, thể hiện trọn vẹn nghĩa tình sư đệ.

Nào ngờ! Vầng trăng vằng vặc giữa bầu trời cố đô bỗng dưng lặn xuống dòng Hương, mây mù vần vũ bất chợt giăng phủ trên đỉnh Ngự! Tăng Ni và Phật tử khắp nơi quá đỗi bàng hoàng khi hay tin trưởng lão Hòa thượng Thích Ðôn Hậu viên tịch. Một vì sao đã khuất vào ngày 21 tháng 3 năm Nhâm Thân (Dương lịch ngày 23 tháng 4 năm 1992), ôn thuận theo thế gian mà không ra khỏi định luật vô thường.

Danh sách ban Lễ tang do nhà nước áp đặt, phần nhiều là đảng viên đảng Cộng sản thuộc ban Tôn giáo chính phủ và Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Ðiều này chứng tỏ rằng, đảng Cộng sản đương quyền đã xen vào nội bộ Phật giáo một cách trắng trợn, nhằm thể hiện mưu đồ biến tang lễ cố Hòa thượng Thích Ðôn Hậu – Chánh thư ký kiêm xử lý Viện Tăng Thống, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất - thành một tang lễ nhuốm màu sắc chính trị, để tuyên truyền cho chế độ cộng sản. Sự việc ấy hoàn toàn đi ngược lại tâm nguyện của người khuất bóng.

Chính quyền vin vào lý do trước đây ôn có tham gia các chức vụ trong guồng máy nhà nước, vừa là đại biểu Quốc hội. Về phía tôn giáo, Giáo hội Phật giáo Việt Nam do nhà nước cộng sản dựng lên năm 1981 đã tự ý áp đặt ôn vào chức vị phó Pháp chủ kiêm Giám luật. Họ cố tình quên bẵng, ôn có gửi cho Giáo hội này hai bức thư từ nhiệm và chưa một lần nào ôn đặt chân đến tham dự các kỳ họp cũng như đại hội của Giáo hội này.

Thêm nữa, chính quyền cộng sản Việt Nam vẫn cứ lập lờ đánh lận con đen. Còn nhớ chăng, sau khi Thượng tọa Thích Thiện Minh bị bức tử trong trại giam X4 đường Nguyễn Trãi, Sài Gòn, khiến ôn đã gửi đơn từ chức đại biểu Quốc hội để tỏ thái độ phản đối.

Ðại diện môn đồ pháp quyến chúng tôi - Hòa thượng Thích Nhật Liên, quý thầy Thích Trí Tựu, Thích Hải Tạng - trong phiên họp đầu tiên với các viên chức chính phủ để tổ chức tang lễ, các vị ấy đã phản bác sự việc nhà nước áp đặt nhân sự ban Lễ tang. Không khí buổi họp có phần gay cấn, nhưng kết cục hai bên cũng đã đi đến thỏa thuận một giải pháp dung hòa, khả dĩ tiến hành tang sự.

Suốt thời gian cử hành tang lễ cố Hòa thượng trụ trì quốc tự Linh Mụ, người dân xứ Huế và các tỉnh thành phụ cận đủ mọi tầng lớp, không phân biệt tôn giáo hay thành phần xã hội, ai nấy đều sôi sục tâm can, sẵn sàng đương đầu với nhà cầm quyền cộng sản để đòi hỏi quyền con người và các quyền tự do dân chủ. Mười bảy năm kể từ khi cưỡng chiếm miền Nam, có lẽ đây là lần đầu tiên đảng Cộng sản Việt Nam mới đối mặt với một tinh thần bất khuất và ý chí quật cường của muôn người như một. Lịch sử quá khứ cho thấy, các cuộc đấu tranh chống bạo quyền phần nhiều được nhen nhúm từ đất Thần kinh. Nhóm lãnh đạo Hà Nội cũng đã lo toan trước, biết đâu mọi chuyện đều có thể xảy ra.

Theo nguồn tin chính xác được tiết lộ từ một Phật tử thuần thành, người này nằm trong lực lượng an ninh chỉ vì miếng cơm manh áo, rằng có rất nhiều công an mặc thường phục hoặc trang phục Gia đình Phật tử, chúng trà trộn vào các đoàn thể đến làm lễ phúng điếu, thọ tang để quay phim chụp hình, đồng thời thu lượm tin tức và dư luận quần chúng.

Thêm nữa, cũng theo nguồn tin này, các lực lượng vũ trang từ những tỉnh thành phía bắc được lệnh di chuyển vào Huế, từ Ðà Nẵng được tăng cường ra. Cư dân vùng Kim Long còn cho chúng tôi biết, ở đây, những cuộn dây kẽm gai, chướng ngại vật và chó nghiệp vụ của các lực lượng này cũng đã được bố trí sẵn bên đường. Mọi việc đều được chính quyền cộng sản chuẩn bị đâu vào đó, nhằm mục đích sẵn sàng trấn áp khốc liệt cuộc biểu tình đòi dân chủ phát xuất từ chùa Linh Mụ, là nơi đang quy tụ đông đảo quần chúng đến dự đám tang.

Hẳn mọi người còn nhớ, chính quyền cộng sản Trung Quốc đã từng đàn áp dã man hàng nghìn sinh viên xuống đường biểu tình đòi dân chủ ở quảng trường Thiên An Môn, thủ đô Bắc Kinh. Biết bao sinh viên vô tội đã gục ngã trước họng súng của chế độ cộng sản bạo tàn. Nay đến lượt Hà Nội sẽ học lại bài học cũ mèm của quan thầy Bắc Kinh vào năm 1989, nếu xảy ra cuộc biểu tình đòi tự do dân chủ của các tầng lớp đồng bào.

Cao điểm nhất là ngày 2 tháng 5 năm 1992, tất cả các phương tiện vận chuyển bằng đường bộ và đường sông hướng đến chùa Linh Mụ đều bị ngăn chặn từ cồn Dã Viên, cầu Bạch Hổ, nơi có tuyến đường sắt Bắc Nam chạy ngang, cách chùa Linh Mụ khoảng chừng hơn hai cây số.

Trên con đường Kim Long độc nhất dọc tả ngạn sông Hương bị các lực lượng này kiểm soát nghiêm ngặt. Tuy vậy, hàng nghìn đồng bào Phật tử ở các tỉnh thành lân cận, các miền duyên hải hay vùng quê xa xôi bất chấp sự phong tỏa, họ tìm đủ mọi cách để đến chùa, dòng người nườm nượp, họ ở lại đêm nay để ngày mai tiễn đưa kim quan cố Hòa thượng nhập bảo tháp.

7. Cuộc tuyệt thực và lễ trao chúc thư

Hai sự kiện xảy ra cùng một ngày đáng ghi nhớ - ngày 2 tháng 5 năm 1992 - đó là cuộc tuyệt thực của môn đồ pháp quyến và lễ trao chúc thư cho Hòa thượng Thích Huyền Quang.

Hôm trước, ban Lễ tang có buổi họp để bàn thảo chương trình lễ thỉnh kim quan nhập tháp vào ngày 3 tháng 5 năm 1992, chính quyền cộng sản chỉ đạo ông Nguyễn Hữu Thọ - đứng đầu ban Lễ tang - sẽ đọc bài điếu văn và gắn huy chương. Thế nhưng, theo di huấn của cố Hòa thượng tân viên tịch, môn đồ pháp quyến và tứ chúng đệ tử phải tổ chức tang lễ thuần túy Phật giáo, đơn giản các lễ nghi và nhất là không được phô trương hoặc tuyên dương công trạng…

Biết được âm mưu và thủ đoạn đen tối của chính quyền cộng sản, chúng sẽ nhuộm đỏ cuộc đời của một bậc cao Tăng đức độ, để cho mọi người cũng như các thế hệ sau này lầm tưởng rằng, ôn Linh Mụ theo gót cộng sản từ tuổi thanh xuân dưới thời kỳ Việt Minh, tiếp đến biến cố mùa xuân năm Mậu Thân (1968), cho đến giai đoạn sau khi miền Nam rơi vào tay cộng sản năm 1975. Bởi thế cho nên, đã đến lúc phải vạch trần bộ mặt giả nhân giả nghĩa của tập đoàn toàn trị Hà Nội, không dễ gì để bị chúng đánh lừa, chúng tôi đồng lòng siết chặt tay nhau, kiên quyết phản đối quyết định của ban Tang lễ. Thượng tọa Thích Trí Tựu tuyên bố sẽ đem thân làm ngọn đuốc soi đường, vị pháp thiêu thân, nếu như chính quyền cộng sản không chấp hành di huấn.

Tờ mờ sáng hôm ấy, hàng chục Tăng Ni môn đồ đệ tử của cố Hòa thượng tân viên tịch cùng ngồi thầm lặng bên kim quan, mở đầu cuộc tuyệt thực trong tinh thần ôn hòa. Bên ngoài, hàng nghìn Phật tử đứng trang nghiêm yên lặng bày tỏ sự đồng tình. Tôi có ghi vài tấm bảng nhỏ: “Chúng tôi tuyệt thực để yêu cầu nhà nước CHXHCNVN hãy tôn trọng di huấn của thầy chúng tôi - 2.5.1992”.

Tại thủ đô Ba-Lê nước Pháp, Ủy ban Bảo vệ Quyền làm Người Việt Nam thuộc cơ sở Quê Mẹ, ông Võ Văn Ái trong cương vị Chủ tịch ráo riết vận động suốt ba ngày đêm, ngõ hầu cứu nguy Phật giáo. Khi nhận được điện báo khẩn thiết của Tăng tín đồ Phật giáo từ Việt Nam kêu cứu, ông Võ Văn Ái tức khắc gửi khẩn điện cho Võ Văn Kiệt, hiện là Thủ tướng chính phủ, yêu cầu chấm dứt việc sắp đặt Nguyễn Hữu Thọ đọc điếu văn tuyên dương công trạng cố Hòa thượng Thích Ðôn Hậu, trái với di huấn của ngài.

Mặt khác, Ủy ban Bảo vệ Quyền làm Người Việt Nam mở ngay cuộc báo động quốc tế qua các cơ quan truyền thông, các hãng thông tấn, báo chí, nhờ Quốc hội và chính phủ thuộc cộng đồng các quốc gia dân chủ, các tổ chức bảo vệ nhân quyền và các công đoàn quốc tế…, cùng lúc gây sức ép với Hà Nội, ngõ hầu chặn đứng một cuộc đổ máu tàn khốc có khả năng xảy ra tại cố đô Huế.

Cuộc vận động cứu nguy Phật giáo đã mang lại kết quả như mong đợi. Ðến chiều tối, cuộc tuyệt thực tạm ngưng bằng sự đàm phán của chính quyền với đại diện môn đồ. Ban Lễ tang cam kết hủy bỏ chương trình tuyên đọc điếu văn và gắn huy chương như dự định. Thay vào đó, ông Nguyễn Hữu Thọ chỉ nói vắn tắt vài lời vĩnh biệt cố Hòa thượng.

Sự kiện thứ hai là buổi lễ trao chúc thư cho Hòa thượng Thích Huyền Quang, sau lễ phúng viếng của phái đoàn Viện Hóa Ðạo.

Hòa thượng Thích Huyền Quang bị chính quyền cộng sản đưa đi quản thúc tại chùa Hội Phước, tỉnh Quảng Ngãi từ năm 1982. Ngài đã phải trải qua một thời gian tuyệt thực để phản đối công an tỉnh Quảng Ngãi ngăn cấm ngài đi Huế tham dự tang lễ cố Hòa thượng chùa Linh Mụ.

Trước ý chí cương quyết của ngài, rốt cuộc chính quyền đành phải ưng thuận. Sự có mặt của Hòa thượng Thích Huyền Quang tại chùa Linh Mụ suốt thời gian tang lễ, đã làm cho môn đồ pháp quyến và Tãng Ni Phật tử vô cùng hân hoan. Mọi người lấy làm mãn nguyện khi được diện kiến đỉnh lễ vấn an ngài.

Thật quá mỉa mai, ban tổ chức tang lễ trong đó có một số vị thuộc Giáo hội nhà nước không chịu sắp xếp ngày giờ phúng điếu cho Hòa thượng Thích Huyền Quang, dù ngài có đề nghị nhiều lần. Tại sao những phái đoàn của chính quyền, các tổ chức, đoàn thể, tôn giáo bạn v.v…lại được ban tổ chức đón tiếp trọng thể, được sắp xếp giờ giấc phúng viếng thọ tang một cách đàng hoàng. Trên loa phóng thanh, xướng ngôn viên đon đả giới thiệu, đón chào; lại còn trân trọng kính mời đại diện phái đoàn ghi vào sổ tang lưu niệm. Thế còn Hòa thượng Thích Huyền Quang là ai? Tại sao chính quyền cộng sản và Giáo hội công cụ do chúng dựng lên lại cố tình ngăn cản ngài làm lễ phúng điếu cố Hòa thượng tân viên tịch? Phải chăng họ xem ngài như cái gai trước mắt, nên dị ứng mà có thái độ phân biệt đối xử với ngài. Cách hành xử như thế, Hòa thượng Thích Huyền Quang cho là bất hợp lý, nên ngài tự quyết định làm lễ, bất chấp ban tổ chức.

Vào khoảng 3 giờ chiều, ngày 2 tháng 5 năm 1992, hàng môn đồ pháp quyến chúng tôi đang tuyệt thực, được tin Hòa thượng Thích Huyền Quang và phái đoàn Viện Hóa Ðạo sắp quang lâm, mọi người rời chỗ ngồi, theo chân Hòa thượng Thích Nhật Liên đến quỳ trước Linh đài, tất cả hướng ra ngoài chờ đợi giờ phút trang trọng. Hàng hàng lớp lớp Tăng Ni và Phật tử thành kính chắp tay hướng về chư tôn Giáo phẩm, lòng nô nức đón chờ. Mỗi một người là một trật tự viên, tự trang nghiêm chính mình.

Chúng tôi không làm sao điều khiển để sắp xếp hàng ngũ và giới thiệu chương trình, bởi vì hệ thống âm thanh khuếch đại hoàn toàn bị tê liệt, do ai đó cố tình cúp điện. Chẳng thấy một bóng dáng nào thuộc thành phần ban tổ chức tang lễ để nhờ giúp đỡ can thiệp với nhà đèn đóng nối mạch điện, hầu như các vị ấy lảng tránh.

Phái đoàn niêm hương cúng dường và đỉnh lễ Giác linh trưởng lão Hòa thượng Thích Ðôn Hậu, Chánh Thư ký kiêm xử lý Viện Tãng Thống. Kế đến Hòa thượng Thích Huyền Quang, quyền Viện trưởng Viện Hóa Ðạo, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, với giọng tha thiết trầm hùng, ngài ôn lại lịch sử Phật giáo và khẳng định pháp lý của Giáo hội truyền thống, xứng đáng kế thừa công lao xây dựng của lịch đại Tổ sư.

Hòa thượng nói rõ hiện tình của Giáo hội từ năm 1975, nhà cầm quyền cộng sản đặt Giáo hội truyền thống ra ngoài vòng pháp luật và đang tâm đàn áp một cách thô bạo. Hà Nội lại dựng lên Giáo hội Phật giáo Việt Nam để làm công cụ tuyên truyền chính trị cho đảng Cộng sản.

Ðây là tiếng nói bất khuất sau mười bảy năm trời, thay lời cho hàng triệu Tăng tín đồ Phật giáo ở trong và ngoài nước, nhằm đòi hỏi tự do, dân chủ và quyền con người. Trước Linh đài cố Hòa thượng tân viên tịch, Hòa thượng Thích Huyền Quang tuyên bố, rằng ngài sẽ tiếp tục điều hành Phật sự Giáo hội sau những tháng ngày dài bị đình đốn.

Sau khi Hòa thượng quyền Viện trưởng Viện Hóa Ðạo trang trọng tác bạch trước Linh đài, Hòa thượng Thích Nhật Liên thay lời toàn thể môn đồ pháp quyến và Tăng Ni Phật tử bày tỏ niềm biết ơn sâu sắc đến chư tôn Giáo phẩm Hội đồng Lưỡng Viện. Kế tiếp, Ðại đức Thích Hải Tạng quỳ gối tác bạch và dâng lên bức chúc thư của Hòa thượng Bổn sư để lại trước lúc viên tịch và ấn dấu Lưỡng Viện.

Nội dung bức chúc thư có đoạn ủy nhiệm cho Hòa thượng Thích Huyền Quang tiếp tục điều hành mọi Phật sự Giáo hội, cho đến khi nào tổ chức được đại hội Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất kỳ VIII.

Năm 1977, đại hội Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất kỳ VII công cử Hòa thượng Thích Ðôn Hậu đảm nhiệm chức vụ Chánh Thư ký Viện Tăng Thống. Hai năm sau, 1979, Ðức đệ nhị Tăng Thống là Ðại lão Hòa thượng Thích Giác Nhiên viên tịch tại Tổ đình Thuyền Tôn, cố đô Huế. Chiếu theo Hiến chương Giáo hội, Hòa thượng Chánh Thư ký kiêm nhiệm xử lý Viện Tăng Thống.

Sau cái chết đầy thương tâm và bí ẩn của Thượng tọa Thích Thiện Minh trong ngục tù cộng sản, tập đoàn toàn trị Hà Nội chủ trương chính sách đàn áp thô bạo các hàng Giáo phẩm kiên trinh với Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Năm 1982, Hòa thượng Thích Huyền Quang - đương kim Phó Viện trưởng Viện Hóa Ðạo - bị đưa về quản thúc tại chùa Hội Phước, tỉnh Quảng Ngãi (miền Trung Việt Nam). Ðồng thời, Hòa thượng Thích Quảng Ðộ - đương nhiệm Tổng Thư ký Viện Hóa Ðạo - bị lưu đày quản thúc tại một ngôi chùa ở quê nhà thuộc xã Vũ Ðoài, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình (miền Bắc Việt Nam). Sau khi Hòa thượng Viện trưởng Viện Hóa Ðạo Thích Trí Thủ viên tịch, ấn dấu bản Viện được chuyển giao Viện Tăng Thống cất giữ.

Mãi đến hôm nay, trong khung cảnh trang nghiêm đượm tình đạo vị, hàng nghìn người con Phật dường như cùng một nhịp đập của con tim. Tất cả đều hướng về Linh đài, nơi tôn trí kim quan cố Hòa thượng Thích Ðôn Hậu, mọi người chứng kiến giây phút lịch sử, Hòa thượng Thích Nhật Liên trân trọng trao chúc thư và ấn dấu Lưỡng Viện, Hòa thượng Thích Huyền Quang khâm thừa di chúc thiêng liêng trong niềm xúc cảm. Thay mặt Hội đồng Viện Hóa Ðạo, ngài ban đạo từ và chân thành cảm ơn môn đồ pháp quyến. Hai chúng xuất gia và tại gia cung kính tiễn đưa chư tôn đức trở về phương trượng trong niềm hân hoan chưa từng có.

Nhờ chuẩn bị chiếc máy ghi âm nhỏ sử dụng bằng pin, tôi đứng hầu bên cạnh Hòa thượng Thích Huyền Quang và đã ghi âm lại đầy đủ theo trình tự suốt buổi lễ trang trọng này.

Ngày 3 tháng 5 năm 1992, lễ cung thỉnh kim quan cố Hòa thượng Thích Ðôn Hậu nhập bảo tháp. Như đã thương lượng để môn đồ pháp quyến tạm ngưng cuộc tuyệt thực ngày hôm qua, ông Nguyễn Hữu Thọ chỉ nói vài lời vĩnh biệt cố Hòa thượng. Sau đó, Thượng tọa Thích Thiện Hạnh thay mặt ban tổ chức đọc lời cảm tạ.

Thế là cảnh dầu sôi lửa bỏng suốt cả tuần nay dường như nguội dần, ai nấy đều cảm thấy nhẹ nhõm trong lòng.

8. Phục hoạt Giáo hội

Hòa thượng Thích Huyền Quang lưu trú thêm vài hôm nữa rồi mới trở vào chùa Hội Phước, tỉnh Quảng Ngãi. Ít lâu sau, Hòa thượng Thích Nhật Liên bảo tôi vào Quảng Ngãi để phụ giúp Hòa thượng Thích Huyền Quang làm thư cảm tạ.

Tôi đến nơi vào khoảng 4 giờ chiều. Ðây là lần đầu tiên tôi đặt chân đến chùa Hội Phước là nơi Hòa thượng bị quản thúc đã hơn mười năm qua. Ngôi chùa tọa lạc giữa khu đông dân cư, cách quốc lộ khoảng chừng một trăm mét. Tôi thấy dân chúng họp chợ ngay trước cổng chùa, đây là chốn tôn nghiêm, thế nhưng không hiểu sao chính quyền địa phương lại để yên như vậy?

Phòng của Hòa thượng tọa lạc phía bên trái từ ngoài đi vào, trước phòng là ngôi tháp Tổ. Ngài không có thị giả, sinh hoạt hàng ngày phải tự mình lo lấy.

Tôi trình bản thảo thư cảm tạ để Hòa thượng xem lại và sửa vài ba ý. Tôi dự định sẽ ở lại đây đánh máy xong xuôi rồi trình Hòa thượng ký tên và đóng dấu luôn thể. Nhưng ngài cho biết, đêm nay tôi không thể nào ở lại chùa Hội Phước, bởi vì chính quyền địa phương ra lệnh cho thầy trụ trì phải đến trình báo đăng ký tạm trú cho khách. Ðể khỏi phiền hà, tôi đành đón xe trở ra Ðà Nẵng, cách Quảng Ngãi chừng một trăm rưỡi cây số, mặc dầu trời đã nhá nhem tối.

Ra đến Ðà Nẵng giữa đêm hôm khuya khoắt, tôi xin tá túc tại chùa Quang Minh ở Hòa Mỹ. Tại đây, sau khi đánh máy hoàn tất, tôi mang thư cảm tạ trở vào lại Quảng Ngãi để trình Hòa thượng ký tên và đóng dấu. Thư cảm tạ kính gửi đến chư tôn Giáo phẩm Hội đồng Lưỡng Viện; chư vị Hòa thượng, Thượng tọa, Ðại đức, Tăng Ni; toàn thể thiện nam tín nữ Phật tử ở trong và ngoài nước. Ngoài ra, ngài còn gửi đến đảng Cộng sản và nhà nước, các ban ngành đoàn thể, chính quyền các cấp; các hãng thông tấn, báo chí, v.v…

Ðiều đáng nhấn mạnh ở đây, thư cảm tạ sau tang lễ cố Hòa thượng Chính thư ký kiêm xử lý Viện Tăng Thống, do Hòa thượng Thích Huyền Quang - quyền Viện trưởng Viện Hóa Ðạo, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất - gửi đến chính quyền cộng sản, một chính quyền độc tài toàn trị đã đặt Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất ra ngoài vòng pháp luật. Ðây là văn bản đầu tiên, ngài thực hiện trọng trách điều hành Phật sự Giáo hội sau khi thừa tiếp chúc thư.

Tiếp theo, Hòa thượng Thích Huyền Quang gửi Ðơn xin cứu xét nhiều việc. Ngài yêu cầu đảng và nhà nước giải quyết thỏa đáng những vấn đề liên quan đến Giáo hội, đòi hỏi phục hồi quyền sinh hoạt pháp lý của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất mà đảng Cộng sản đương quyền đã ngang nhiên tước đoạt một cách phi lý. Phục hoạt Giáo hội là việc làm hoàn toàn không có mưu đồ chính trị. Dưới sự lãnh đạo của ngài, chúng tôi chỉ thực thi các quyền căn bản được công nhận trong Công ước Quốc tế về các quyền Dân sự và Chính trị của Ðại Hội đồng Liên Hiệp Quốc công bố năm 1966, mà Việt Nam đã tham gia ký kết.

Bao tháng ngày dằng dặc trôi qua, sinh hoạt của Giáo hội bị đình đốn. Giờ đây, nhìn con dấu Viện Hóa Ðạo - Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất - được đóng màu son đỏ trên các văn bản, lòng tôi cảm thấy náo nức. Giáo hội bị chế độ cộng sản bạo tàn trù dập ngần ấy năm, nay chợt bừng sống dậy. Tuy nhiên, trong niềm vui khó tả ấy, hầu như cũng xen lẫn nỗi đau chua xót khi đọc dòng chữ “Văn phòng lưu vong - Viện Hóa Ðạo”. Chắc hẳn ai cũng liên tưởng đến các bậc tôn túc lãnh đạo Giáo hội đang bị chính quyền cộng sản lưu đày.

9. Chịu cảnh lao lung

Tăng đoàn bảo vệ chánh pháp do Thượng tọa Thích Không Tánh làm đại diện, văn phòng đặt tại chùa Liên Trì, quận 2, Sài Gòn. Chư Tăng Ni và Phật tử còn tâm huyết với Giáo hội dân lập thường đến đây sinh hoạt Phật sự và trao đổi tin tức Giáo hội ở trong nước và nước ngoài. Hết thảy mọi người đều cùng chung chí hướng, hoạt động phục hồi quyền sinh hoạt của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, bất chấp công an mật vụ theo dõi, răn đe, thậm chí còn chấp nhận cảnh lao tù.

Trung tuần tháng 9 năm 1992, chúng tôi thảo luận “Kế hoạch 20’’ do thầy Nhật Thường soạn thảo. Theo đó, chúng tôi sẽ chia thành từng nhóm đi về các tỉnh miền Trung và miền Tây, thu thập danh sách quý Tăng Ni và Phật tử đang bị giam cầm hay bị quản thúc vì lý do tôn giáo. Ngoài ra, chúng tôi còn tập hợp tư liệu bằng văn bản, hình ảnh; lập chứng cứ các tự viện, tịnh xá, tịnh thất, niệm Phật đường …, cùng các cơ sở giáo dục, y tế, từ thiện xã hội … thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất đã bị chính quyền cộng sản cưỡng đoạt hay chiếm dụng phi pháp từ năm 1975.

Dự định trong vòng hai mươi ngày, nhóm chúng tôi sẽ hoàn tất kế hoạch, sau đó làm phúc trình gửi đến đại hội Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất hải ngoại sắp tổ chức vào cuối năm nay tại Hoa Kỳ. Ðại hội sẽ có Nghị quyết đòi hỏi Hà Nội phải trả tự do vô điều kiện cho những người còn bị giam giữ và trả lại giáo sản cho Giáo hội truyền thống. Thế nhưng, kế hoạch chưa thực hiện được thì chẳng may thầy Nhật Thường bị công an chặn bắt trên đường về.

Ngày 2 tháng 10 năm 1992, tôi đi xe gắn máy chở Thượng tọa Thích Không Tánh từ chùa Liên Trì, qua phà Thủ Thiêm, đến khu trung tâm Sài Gòn để mua một ít văn phòng phẩm. Khoảng 11 giờ, trời đổ mưa nên chúng tôi chờ tạnh ráo mới về. Chúng tôi đang đi bình thường trên đường Ðồng Khởi, thình lình từ phía sau, một người mặc trang phục cảnh sát giao thông đi xe gắn máy vượt lên, sau xe chở thêm một người mặc thường phục. Họ ra tín hiệu chặn xe tôi lại, ép vào lề đường. Tôi dừng xe bèn hỏi:

- Có chuyện gì không anh?

- Hai thầy cho chúng tôi kiểm tra giấy tờ xe.

- Tôi có vi phạm luật giao thông hay không?

- Thưa không, hai thầy không vi phạm luật giao thông. Chỉ có điều là, anh bạn này bị mất chiếc xe, anh ấy trông chiếc xe này y hệt xe của anh. Vậy mời hai thầy đến trụ sở công an phường gần đây để xác minh.

Tôi bèn lấy giấy chứng nhận chủ quyền xe đưa cho người cảnh sát giao thông xem rồi nói:

- Xe tôi có giấy tờ hợp lệ và đã sử dụng nhiều năm nay chứ đâu phải xe gian, cớ sao các anh lại kiếm chuyện. Hãy trả giấy tờ lại cho tôi.

- Thôi được, hai thầy cứ về phường để chúng tôi xác minh, nếu đúng thật là xe của thầy thì chúng tôi sẽ trả lại.

Thầy Không Tánh cự nự:

- Việc xe cộ thì tôi đâu có liên can, tại sao các ông buộc tôi phải về phường?

Bấy giờ, người qua đường thấy cảnh hai nhà sư và cảnh sát giao thông cãi cọ, mọi người dừng lại và nghe ngóng sự việc, có người lên tiếng bênh vực chúng tôi. Ðột nhiên, có nhiều người chen vào đám đông khống chế thầy Không Tánh, những người khác thì ngăn cản không cho đám đông dân chúng xông vào giải vây cho thầy. Chúng áp giải thầy Không Tánh lên một chiếc xe ô tô đậu sẵn gần đó, rồi nổ máy phóng nhanh. Riêng tôi, người cảnh sát ấy leo lên sau xe gắn máy, giục tôi băng qua đuờng Nguyễn Huệ, quẹo qua trụ sở công an phường Bến Nghé, quận 1, Sài Gòn.

Ðến đồn công an, người cảnh sát giao thông lập biên bản tạm giữ xe và yêu cầu tôi cho biết tên và địa chỉ của thân nhân để họ mang xe về giao cho người ấy. Tôi suy đoán, sự việc diễn ra như vậy có nghĩa là mình đã bị bắt giữ.

Khoảng một giờ sau, một lực lượng khoảng mươi người tập trung đến, có người mặc sắc phục công an, người thì mặc thường phục. Sau này tôi mới biết, những người ấy là thủ trưởng cơ quan An ninh điều tra, cùng với các viên chức sở Công an thành phố. Mọi người tiến hành thẩm vấn, đồng thời khám xét túi xách, quay phim, chụp hình chúng tôi. Thầy Không Tánh bị thu giữ một chiếc máy đánh chữ vừa mới mua xong ở đường Huỳnh Thúc Kháng, ngoài ra thầy hoàn toàn không có một giấy tờ hay tài liệu gì mang theo người, để gọi là phạm pháp quả tang. Riêng trong túi xách của tôi chỉ có một tập đánh máy do tôi trích viết ra từ hai cuốn băng ghi âm “Lời tự thuật của Hòa thượng Thích Ðôn Hậu”.

Nội dung chính của hai cuốn băng này là ôn kể lại những cuộc đối thoại với Thủ tướng Phạm Văn Ðồng, nói về việc chính quyền cộng sản sau khi đánh chiếm miền Nam Việt Nam, chúng ra tay triệt hạ chùa chiền, chiếm đoạt nhiều cơ sở của Giáo hội, đập phá tượng Phật…, đáng kể nhất là chúng đập phá tan tành tượng đài lộ thiên Quán Thế Âm Bồ tát ở Biển Hồ (miền cao nguyên Trung phần Việt Nam). Ôn cũng thuật lại rõ ràng sự việc Thượng tọa Thích Thiện Minh bị bức tử trong nhà tù, cho đến mọi việc ứng cử và từ chức đại biểu Quốc hội v.v… Nói chung, tài liệu này ghi lại lời ôn Linh Mụ đối thoại thẳng thắn với chính quyền cộng sản, chẳng phải là tài liệu hoạt động hay chống phá nhà nước. Thế mà những viên công an vẫn tiến hành lập biên bản phạm pháp quả tang để bắt giữ thầy Không Tánh và tôi.

Buổi chiều cùng ngày, công an đưa chúng tôi về trại giam tọa lạc tại số 3C, đường Tôn Ðức Thắng, quận 1, Sài Gòn, là cơ quan An ninh điều tra PA 24, công an thành phố. Mấy hôm sau, họ lại chuyển tôi đến trại giam số 4, đường Phan Ðăng Lưu, quận Bình Thạnh, rồi ra lệnh tạm giam bốn tháng.

Cơ quan điều tra ra quyết định khởi tố vụ án và khởi tố bị can về tội “Phá hoại chính sách đoàn kết’’, theo điều 81, Luật Hình sự năm 1985 của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Ðiều tra viên là đại úy Ðinh Bá Thắng hỏi cung tôi bất kể giờ giấc. Nội dung chính trong những buổi thẩm vấn là tập trung quanh vấn đề phục hoạt Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Ngoài ra, cơ quan An ninh điều tra tìm đủ mọi cách để cố tình gán ép chúc thư của cố Hòa thượng Thích Ðôn Hậu để lại là bức chúc thư giả mạo, nhằm vô hiệu hóa công cuộc phục hồi Giáo hội truyền thống, do Hòa thượng Thích Huyền Quang và Thích Quảng Ðộ lãnh đạo, được Hòa thượng Thích Ðức Nhuận cố vấn.

Tôi bị biệt giam ở khu C, ở chung với một người nguyên là công an quận Tân Bình, can tội tiếp tay buôn lậu tại sân bay Tân Sơn Nhất. Biết ở trại giam hay cài đặt người làm điểm chỉ viên để báo cáo phục vụ cho công tác điều tra, nên tôi dè dặt khi nói chuyện. Tôi được biết giáo sư Ðoàn Viết Hoạt và nhiều tù nhân chính trị khác đang bị giam ở đây, mặc dù rất ngưỡng mộ nhưng không làm sao liên lạc được.

Thấm thoát ba tháng trôi qua, từ ngày thầy Nhật Thường, thầy Không Tánh và tôi bị bắt, ông Võ Văn Ái - phó Chủ tịch Liên Ðoàn Quốc tế Nhân quyền, Chủ tịch Ủy ban Bảo vệ Quyền làm Người Việt Nam thuộc Cơ sở Quê Mẹ tại Pháp - đã lên tiếng vận động các tổ chức bảo vệ quyền con người trên thế giới, như Tổ chức Ân xá Quốc tế, Tổ chức Theo dõi Nhân quyền…, cùng lúc gây sức ép với Hà Nội trả tự do cho chúng tôi. Chúng tôi lần lượt ra khỏi trại giam kèm theo lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú vô thời hạn. Ðược Thượng tọa Thích Ðức Chơn đồng ý, tôi trở về tu viện Quảng Hương Già Lam chịu sự quản thúc của chính quyền. Phòng An ninh tôn giáo PA16 - công an thành phố trực tiếp giám sát tôi, mỗi nửa tháng tôi phải đến trình diện, báo cáo sinh hoạt hoặc đi lại trong nửa tháng vừa qua.

Nhiều lần, các viên chức công an PA16 đứng đầu là Ba Lực đặt thẳng vấn đề với tôi. Nếu tôi bằng lòng tham gia cộng tác với cơ quan an ninh với một tấm lòng trung thực, sẵn sàng nhận nhiệm vụ được giao phó và hoàn thành kế hoạch, thì họ sẽ tạo điều kiện cho tôi có một cuộc sống thoải mái, được nhập hộ khẩu về thành phố, sau đó phân bổ trú trì tại một ngôi chùa lớn ở đây, quyền lợi hay địa vị đều có đủ.

Theo sự suy nghĩ nông cạn của tôi, đối với chế độ cộng sản, khi cơ quan an ninh mời làm cộng tác viên, nhận nhiệm vụ báo cáo hay theo dõi đối phương, người được tin tưởng thu nhận phải ký vào văn bản cam kết với ngành an ninh, tuyệt đối trung thành, một lòng một dạ. Thà rằng mình từ chối ngay buổi ban đầu, chứ một khi chân đã lún sâu vào vũng bùn danh lợi này, thì khó lòng rút chân ra. Ví dầu có rút chân ra được đi chăng nữa, thì hậu quả cũng khó lường. Bởi thế cho nên, đứng giữa tình huống này, tôi áp dụng bài học nghìn vàng: "Phàm làm việc gì trước phải nghĩ đến hậu quả của nó". Tôi nhất quyết từ chối, món mồi danh vị béo bở đó không làm sao câu nhử được tôi.

Ngày 30 tháng 4 năm 1993, nhớ về tháng tư đen mười tám năm về trước, tôi viết một bức tâm thư đệ trình Hòa thượng Thích Huyền Quang để bày tỏ nỗi lòng của mình:

    Tu viện Quảng Hương Già Lam, ngày 30-4-1993

    Tâm thư kính dâng Hòa thượng Thích Huyền Quang,

    Ngưỡng bái bạch Hòa thượng,

    “Đã gần ba mươi năm trôi qua, con nhờ duyên lành được hun đúc trong chốn thiền môn. Quý ôn quý thầy đã dày công dạy dỗ con nên người, tác thành cho con pháp thân huệ mạng, ân đức của quý ngài con chưa hề báo đáp trong muôn một. Nay Hòa thượng bổn sư của con đã viên tịch, con cũng kính xin Giác linh thầy chứng giám cho lòng con.

    Kính bạch Hòa thượng,

    Vì tiền đồ đạo pháp, vì sự sống còn của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, anh em chúng con một lòng quyết chí đem hết khả năng để phục hoạt Giáo hội dưới sự lãnh đạo của Hòa thượng. Bởi hoàn cảnh nghiệp duyên mắc vòng lao lý, tuy ra khỏi trại giam nhưng đang còn thi hành lệnh quản thúc của chính quyền. Nay chính quyền Cộng sản Việt Nam áp đặt con phải thỏa hiệp cộng tác, phải báo cáo, theo dõi những vị thầy nào họ cần. Con không thể vì chút danh lợi, hay một sự yên thân, để làm những việc mà theo sự suy nghĩ của con, ấy là việc làm thương tổn, táng tận lương tâm. Thà bản thân con sa đọa ác đạo, lăn lóc vào ngũ trược ác thế, chứ không thể có hành vi phá hoại hòa hiệp chúng Tăng, mang tội ngũ nghịch…

    Con xin nguyện hiến thân này cho đạo pháp, một dạ trung trinh, trước cơn sóng dữ này. Cúi mong Hòa thượng lân mẫn thông cảm cho nỗi lòng của con, lá thư này thành kính dâng lên Hòa thượng như lời tâm huyết, là chứng tích cho lịch sử mai hậu”…

    Kính chúc Hòa thượng pháp thể khinh an, chúng sinh dị độ. Nguyện cầu pháp nạn sớm được giải trừ.

    Thành kính cúi đầu vọng bái

    Đệ tử Tỳ kheo Thích Trí Lực

    Cũng vào thời điểm này, sau sự biến cầu Phú Xuân, nghe tin các pháp huynh và pháp đệ của tôi bị bắt tại chùa Linh Mụ, quý thầy Thích Trí Tựu, Thích Hải Tạng, Thích Hải Chánh, Thích Hải Thịnh và một số Phật tử mắc vòng lao lý. Cùng lúc ấy, tôi bị giám sát chặt chẽ hơn bao giờ hết, công an ngoại tuyến thay phiên nhau rình rập canh chừng. Ít lâu sau, tôi xin chuyển đến chùa Pháp Vân, phường 18, quận Tân Bình, được Hòa thượng Thích Thật Trí bảo lãnh. Trước năm 1975, đây là cơ sở trường Thanh niên phụng sự xã hội do Hòa thượng Thích Nhất Hạnh sáng lập, chính quyền cộng sản chiếm đoạt cơ sở này dùng làm trường phổ thông trung học Trần Phú, chỉ chừa lại khuôn viên thờ tự bây giờ.

    10. Lá rách đùm lá nát

    Tháng 10 năm 1994, các tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long bị trận lũ lụt nặng nề, đồng bào ruột thịt sống trong cảnh màn trời chiếu nước. Hòa thượng Thích Quảng Ðộ - Viện trưởng Viện Hóa Ðạo - tổ chức cứu trợ nạn nhân, ngài gửi văn thư cho chính phủ, thông báo phái đoàn Giáo hội sẽ đi cứu trợ vào ngày 6 tháng 11 năm 1994. Thượng tọa Thích Long Trí ở Tổ đình Viên Giác, thị xã Hội An, tỉnh Quảng Nam, được ngài mời vào làm trưởng đoàn để điều hành công việc. Thế nhưng, cuối tháng 10 năm 1994, Thượng tọa Thích Long Trí bị công an thành phố cưỡng chế phi pháp, ép buộc ngài ra sân bay Tân Sơn Nhất, đáp máy bay trở về Hội An, nhằm ngăn chặn ngài tham gia công tác cứu giúp đồng bào. Tuy vậy, số Tăng Ni và Phật tử tại đây vẫn tiến hành công việc như đã dự định.

    Ngày 5 tháng 11 năm 1994, sở công an thành phố mời tôi đến thẩm vấn. Ba Lực và nhiều người khác tập trung câu hỏi chung quanh vấn đề Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhẩt tổ chức đi cứu trợ nạn nhân lũ lụt tại huyện Thanh Bình, tỉnh Ðồng Tháp vào ngày mai. Ðến bốn giờ chiều, các viên công an thuộc phòng An ninh tôn giáo PA16 đến chùa Pháp Vân là nơi tôi đang bị quản thúc, họ đề nghị tôi viết bản cam kết ngày mai không đi cứu trợ. Tôi trả lời:

    - Ði cứu giúp đồng bào nạn nhân lũ lụt ở đồng bằng sông Cửu Long là việc Giáo hội chúng tôi đã dự tính. Hòa thượng Thích Quảng Ðộ đã gửi văn thư thông báo cho chính quyền rồi, nếu chính quyền không cho phép thì cũng phải có văn bản trả lời cho Giáo hội chúng tôi. Thêm nữa, phẩm vật cứu trợ do thập phương bá tánh hảo tâm chung góp, hiện giờ đều đã chuẩn bị đâu vào đó, phương tiện vận chuyển như xe cộ và thuyền bè thì chúng tôi đã hợp đồng, bởi vậy tôi nhất quyết lên đường và sẽ không bao giờ viết cam kết theo sự yêu cầu của các ông.

    Từ giờ đó đến tối, công an khu vực túc trực ở chùa Pháp Vân, lực lượng dân phòng được lệnh canh gác nghiêm ngặt bên ngoài. Khoảng ba giờ sáng, ngày 6 tháng 11 năm 1994, công an vào chùa kiểm tra hộ khẩu, đây chỉ là cái cớ để họ mời tôi ra trụ sở Ủy ban nhân dân phường 18, quận Tân Bình, để tiến hành thẩm vấn. Tại đây đã có các nhân viên an ninh quận và thành phố chờ sẵn, họ lập biên bản ghi lời khai về việc chúng tôi tổ chức cứu trợ đồng bào nạn nhân lũ lụt. Ngoài ra, tôi còn bị thẩm vấn về hoạt động phục hồi Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất trong hai năm qua.

    Khoảng bảy giờ sáng thì lực lượng an ninh có mặt đông hơn, các ông ấy thay nhau chất vấn tôi không nghỉ. Mặt khác, công an vào chùa Pháp Vân lục soát và thu giữ một tấm băng vải lớn màu vàng có cắt dán dòng chữ “Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất - Ðoàn cứu trợ’’. Họ mang tấm băng vải ấy ra trụ sở Ủy ban, lập biên bản tịch thu, gọi là tang vật vụ án, rồi buộc tôi ký vào. Ðiều làm cho tôi ngạc nhiên là vào giờ này, có cả sự hiện diện của các thầy trong ban Ðại diện Giáo hội Phật giáo Việt Nam, quận Tân Bình (Giáo hội do nhà nước dựng lên vào năm 1981).

    Một sự kiện đáng ghi nhớ, cho đến hôm nay khi nghĩ lại, tôi vẫn tự mừng cho mình. Nhờ sự cảnh giác theo linh tính, nên tôi không bị mắc lừa mưu mô lường gạt chính trị của chính quyền Cộng sản. Suýt nữa thì tôi bị làm con cờ thí để chúng lập lờ đánh lận con đen, dối trá quần chúng và lừa bịp dư luận vào ngày hôm đó. Ấy là, sau nhiều tiếng đồng hồ thẩm vấn, khoảng mười giờ thì tôi được tạm nghỉ giải lao. Ông Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc quận Tân Bình vào phòng thăm hỏi và trò chuyện vui vẻ với tôi. Khi sắp cáo từ, ông ấy đưa ra lời đề nghị:

    - Từ khuya đến giờ có lẽ thầy cũng đã mệt mỏi, tiện dịp đây có quý thầy trong ban Ðại diện Phật giáo quận nhà, vậy xin mời thầy đi tham quan một lát cho khuây khỏa.

    Tôi mỉm cười hỏi lại:

    - Ông định mời tôi đi đâu?

    - Hôm nay là ngày chủ nhật, như thường lệ, ở Tổ đình Giác Lâm quận Tân Bình có tổ chức khóa tu Bát quan trai cho các Phật tử. Mời thầy đến đây thăm Tổ đinh, sau đó chúng tôi sẽ đưa thầy trở về chùa Pháp Vân.

    - Tôi chẳng đi đâu cả, hoặc là tôi ở đây, hoặc là các ông đưa tôi trở về chùa Pháp Vân.

    Nghe tôi trả lời như vậy, ông ấy từ giã ra về. Một lát sau, vài ba người khác trở vào, họ dùng lời lẽ cảm tình nhằm thuyết phục tôi nhận lời ra xe. Tôi nghĩ rằng, mặc dầu bộ Công an và viện Kiểm sát chưa công bố lệnh bắt, nhưng hiện giờ cứ xem như là mình đã bị bắt. Không lẽ chính quyền lại phải năn nỉ một bị can đi thăm viếng chỗ này chỗ nọ, họ có ý đồ gì mà phải ra sức thuyết phục mình nhận lời đi đến Giác Lâm cho bằng được? Hôm nay, chùa Giác Lâm là nơi đang có đông đảo quần chúng Phật tử, ở đây cũng là văn phòng ban đại diện Phật giáo quận Tân Bình thuộc Giáo hội nhà nước. Sự có mặt của mình ở đó, chính quyền cộng sản sẽ mở một phiên đấu tố y chang thời kỳ cải cách ruộng đất, bọn chúng sẽ lên án và bôi nhọ Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, rồi tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng, nhằm đánh lừa dư luận về việc bắt bớ quý thầy trong đoàn cứu trợ hôm nay. Tôi dặn lòng, xưa nay cộng sản vốn nhiều mưu mô xảo quyệt, hãy đừng để cho bọn chúng đánh lừa. Nghĩ đến đây, tôi nhất quyết chối từ.

    Suốt cả buổi chiều, tuy không có ai thẩm vấn, nhưng họ vẫn không cho tôi về. Bên ngoài, cửa vẫn khóa chặt, công an thay phiên nhau canh gác. Thế là đêm nay, tôi phải ở lại tại trụ sở Ủy ban phường, chỉ cách chùa Pháp Vân chừng vài trăm mét. Suốt đêm dài, giấc ngủ cứ chập chờn, tôi chạnh lòng nghĩ đến chư vị Hòa thượng Thích Huyền Quang, Thích Quảng Ðộ trải qua bao năm dài chịu cảnh lưu đày quản thúc. Quý thầy Thích Không Tánh, Nhật Thường và các vị khác, giờ này có lẽ cũng đang mắc vòng lao lý như tôi. Vì lý tưởng phục hồi quyền sinh hoạt pháp lý của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, chúng tôi còn phải gánh chịu nhiều gian nan vất vả, thậm chí sẵn sàng chấp nhận cảnh cá chậu chim lồng.

    Hôm sau, ngày 7 tháng 11 năm 1994, một toán công an áp giải tôi về đồn công an quận Tân Bình, rồi họ chuyển giao cho cơ quan An ninh điều tra PA24, công an thành phố, số 3C đường Tôn Ðức Thắng, quận 1, Sài Gòn. Thế là hơn hai năm sau, tôi lại tiếp tục bước chân vào đây. Khung cảnh trại giam cũng chẳng có gì thay đổi, vẫn những dãy buồng biệt giam, có những cánh cửa sắt nặng nề đóng kín, trong đó đã từng giam hãm bao người. Ông Ðinh Bá Thắng là cán bộ điều tra tôi trong đợt bị bắt năm 1992, nay ông ấy phụ trách đội trưởng đội quản lý trại giam. Trông thấy tôi, ông ta lắc đầu với giọng trách móc:

    - Tôi buồn anh quá, không biết cải thiện, để vào đây nữa.

    Tôi im lặng và mỉm cười.

    Lúc trời nhá nhem tối, ông ấy lại vào gõ cửa buồng giam và hỏi tôi để chìa khóa tủ ở đâu? Tôi trả lời và nghĩ rằng, đêm nay chắc chắn chính quyền sẽ khám xét chùa Pháp Vân. Qua ngày sau, công an mang vào trại giam một số văn bản của Hòa thượng Thích Huyền Quang và Thích Quảng Ðộ ấn ký mà họ tịch thu được tại chùa, rồi buộc tôi ký tên vào từng tờ một.

    Tuy công an đã bắt giam tôi gần một tuần lễ, nhưng nay cơ quan điều tra mới tống đạt cho tôi lệnh bắt khẩn cấp đề ngày 6 tháng 11 năm 1994, can tội “Phá hoại chính sách đoàn kết”, theo điều 81, Luật Hình sự năm 1985. Một tháng sau, cơ quan này lại ra thêm quyết định bổ sung tội danh: “Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của nhà nước, của tổ chức xã hội, hoặc của công dân” theo điều 205a, Quốc hội bù nhìn mới thông qua. Tôi hỏi dò la mới biết, trong đợt đi cứu trợ nạn nhân lũ lụt, quý thầy Thích Không Tánh, Thích Nhật Ban, thầy Nhật Thường và Phật tử Ðồng Ngọc cũng đều bị bị bắt giam ở đây. Ðầu tháng giêng năm 1995, Hòa thượng Thích Quảng Ðộ bị bắt tại thiền viện Thanh Minh, quận Phú Nhuận, Sài Gòn.

    Tại các buổi hỏi cung, điều tra viên thường ghi vào biên bản, việc chúng tôi tổ chức đi cứu trợ đồng bào tại vùng đồng bằng sông Cửu Long vừa qua, là nhằm phô trương thanh thế Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Họ quy chụp rằng, đây là Giáo hội bất hợp pháp, chưa được nhà nước cho phép hoạt động và có những hoạt động chống phá chính quyền.

    Tôi bị biệt giam ở khu B, các buồng giam ở đây tuồng như những chiếc hộp vuông nhỏ được đúc kiên cố, tất cả đều nằm gọn trong mái che lớn lợp bằng tôn, chẳng khác gì một nhà kho. Người bị nhốt chịu cảnh nóng bức ngột ngạt, hoàn toàn không nhìn thấy bầu trời, ngày cũng như đêm, chỉ quanh quẩn trong bốn bức tường vôi chật chội, với ngọn đèn vàng mờ mờ mịt mịt.

    Tết đến, tôi bị giam chung với một thanh niên chừng ba mươi tuổi, anh ta rầu rĩ suốt đêm ngày. Hỏi ra mới biết, anh ấy bị bắt vào đây chỉ vì tội dám viết lên vách tường trong một khu chợ đông đúc nào đó ở Hóc Môn: “Nhà nước cấm đốt pháo, để pháo nhà nước đốt’’, rồi ký tên Ðỗ Mười. Thì ra, Tết Nguyên đán Ất Hợi năm nay (1995), nhà nước ra lệnh cấm đốt pháo. Vui tay vui miệng như anh ấy đến nỗi nào mà cũng phải chịu tội tuyên truyền chống chế độ, để phải vào ở nhà đá nếm mùi cộng sản, hưởng một cái Tết trong tù.

    » Xem tiếp PHẦN 2


^ TRỞ LÊN ^
» TRANG CHỦ


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét