PHẦN 2
CHƯƠNG 4
TRẠI TÙ THỨ HAI: TY CÔNG AN TỈNH MINH HẢI
T
ừ khi di chuyển từ trại giam huyện Vĩnh Lợi đến phòng cảnh sát hình sự Ty công an Minh Hải, tôi càng gặp nhiều chuyện buồn thêm. Thứ nhất do khinh suất sai lầm của mình, một sự va vấp khiến tôi phải ân hận suốt đời. Đó chính là lý do tôi phải nói lên sự thật qua trang hồi ký nhỏ bé nầy những thiếu sót của mình để giải tỏa bớt những khúc mắc mà nhiều năm qua tôi mang nặng canh cánh bên lòng. Do bức thư tôi gởi về bị phát hiện, nên công an tỉnh đã bắt thêm một số người gồm:
1/ Huỳnh Hữu Thọ em ruột của tôi
2/ Hồ Văn Minh người Phật tử ở kế cận chùa
3/ Ông Nguyễn Văn Kiếm
4/ Ông Trần Văn Giái.
Khi tôi viết những dòng hồi ký này thì tôi đã được trả tự do hơn 7 tháng, tôi có tìm đến nhà những người có tên nói trên để thăm viếng. Trước nhất tìm đến nhà ông Giái để thăm hỏi và giúp đỡ, an ủi ít tài vật cho ông cùng các cháu ngoại vì tuổi ông nay đã già, đôi mắt lại bị mù, cuộc sống khốn đốn khó khăn. Riêng anh Hồ Văn Minh khi đi tù về thì vợ đã có chồng khác, anh lại phải tìm kế sinh nhai và đã bị tai nạn giao thông qua đời cách đây mấy năm. Ông Nguyễn Văn Kiếm thì lưu lạc tìm kế sinh nhai ở tỉnh xa. Tôi chưa có dịp gặp vì ông không còn ở Bạc Liêu nữa! Trường hợp đứa em trai tôi tên Huỳnh Hữu Thọ khi trở về gia đình, thì vợ của Thọ tức em dâu tôi đã bước sang thuyền khác. Thọ phải lập gia đình một lần nữa vì bị công an địa phương khó dễ đủ điều nên phải cũng rời xứ sở tha phương cầu thực nơi tỉnh Rạch Giá Kiên Giang. Tội nghiệp, gia đình đông con, công việc làm ăn luôn gặp khó khăn thất bại, nên buồn phiền đã sinh ra tật rượu chè say sưa làm giảm đi một phần nhân cách. Tôi có đến gia đình thăm em một lần và khuyên bảo nhưng vẫn chưa cải đổi tánh tình cũng là chuyện đáng buồn, một phần trong đó có trách nhiệm ở nơi tôi.
Xin tường thuật lại nhà giam chúng tôi đang ở, trực thuộc phòng cảnh sát hình sự, trưởng phòng là đại úy Châu Trọng Nam. Đây là nơi giam giữ những người mới bị bắt với nhiều tội trạng khác nhau, giam vào đây là để điều tra khai thác vì nơi này có đủ mọi biện pháp được áp dụng khắt khe trong công tác tra hỏi. Tại đây, từ việc đánh đập bằng tay chân, bằng gậy gộc, bằng dùi cui, bằng báng súng cho đến cùm, quyện, giam vào phòng giam riêng là điều xảy ra hàng giờ hàng buổi. Trại giam có đủ mọi cán bộ, công an từ Bắc vào Nam, kể cả kháng chiến lâu năm cho đến những tên công an loại mới vào ngành mà dân gian thường gọi là bọn “công an 30/4”. Họ đều có những ngón nghề độc đáo để điều tra, nào là đánh túi bụi, đánh kiểu trên đao dưới búa, còng tay đứng, còng chéo tay sau lưng, còng ngồi đan chéo hai tay. Họ dùng nhục hình để điều tra, bản thân tôi khi giam giữ tại đây, cũng không tránh khỏi những nhục hình này. Hàng ngày hai chân tôi luôn ở trong cùm, bị cùm suốt ngày đêm, suốt tháng quanh năm. Hai chân bị cùm quyện tại chỗ, không thể đứng thẳng được nên dần dần bị tê liệt. Còn tiểu tiện thì trong một cái hũ, mỗi khi đi vệ sinh phải nhờ người khiêng hũ lại dùm. Hũ vệ sinh vừa có phân, vừa có nước tiểu. Mỗi ngày công an cho người đem đổ. Có khi đến 2-3 ngày mới đổ nên phân và nước tiểu tràn ra ngoài ướt cả chỗ nằm bốc mùi hôi thối! Sau khi đổ hũ, công an ra lệnh tù nhân phải vào ngay thật nhanh cho nên chiếc hũ chỉ rửa sơ sài, sau đó họ múc nước ngay chỗ rửa hũ mang vào cho những người đang bị cùm trong quyện như tôi để tắm. Mỗi người trong cùm chỉ được vài ca nước. Ca múc nước tắm cũng là ca đựng cơm ăn hàng bữa…Chiếc hũ luôn luôn còn sót lại phân người, nhất là phân cao lương loại lương thực rất cứng ăn vào khó tiêu, loại này dùng để ăn độn thay thế cơm. Khi tắm phân dính cả vào mặt, vào đầu đó là chuyện thường ngày. Phòng giam kỷ luật rất chật hẹp khoảng hơn 3m2 mà nhốt có khi lên đến 20 người, chỉ ngồi cũng không đủ chỗ làm gì có khoảng trống để nằm.
Thời tiết vào hè rất oi bức, nóng nực vô cùng, mồ hôi nhễ nhại nên tắm cũng cảm thấy rất mát và dịu bớt sự căng thẳng thần kinh. Có điều tế nhị là phải biết cư xử, biết ơn những người khiêng hũ, mới có nước tắm lần sau. Khi đêm về mọi người trong phòng phân công nhau, thay phiên dùng chiếu làm quạt, vừa đuổi muỗi vừa tạo sức gió cho mát để dễ ngủ. Mỗi lần quạt một giờ đồng hồ, vừa quạt lại vừa thức gác đêm. Theo qui định của nhà giam, thì mỗi phòng đều sắp xếp phân công người tù thức gác vào ban đêm. Khi phòng kế bên dùng chiếc đũa gõ vào lon sữa bò 3 tiếng, thì các phòng khác phải gõ theo hòa lên một tràng âm thanh kéo dài. Những tên cai ngục cầm súng gác bên ngoài đi tới đi lui nhìn nhớn nhác vào trong các phòng. Anh ta phát hiện phòng nào không gõ, tức người gác đã ngủ quên. Anh ta sẽ lập biên bản, hoặc có thái độ giở giọng đe dọa chửi bới tục tằn hay đề xuất ban giám thị có biện pháp kỷ luật như: Cúp không cho nhận quà của gia đình hay bị cùm quyện tay chân, hạn chế tiêu chuẩn cơm ăn hằng bữa trong một thời gian nhất định.
1. CỘNG SẢN CÀI NGƯỜI LÀM KHỔ NHỤC KẾ ĐỂ BÁM SÁT TƯ TƯỞNG CHO MỤC ĐÍCH KHAI THÁC ĐIỀU TRA
Những ngày tại phòng 8A, tôi phát hiện cơ quan B2 tức Bảo Vệ Chính Trị tỉnh có âm mưu cài người làm” khổ nhục kế” để bám sát, theo dõi nắm tin tức về tôi. Người được giao nhiệm vụ tên là Hồ Công Sơn, hạ sĩ quan thuộc binh chủng Biệt động quân của VNCH. Sơn là cháu ruột của Hồ Nghi, Bí Thư tỉnh ủy, tỉnh Quảng Nam Đà Nẵng. Sơn được móc nối hoạt động trước năm 75, sau ngày 30-4-75 anh ta làm việc cho cơ quan B2 tức Bảo vệ Chính trị tỉnh Minh Hải.
Một hôm vào khoảng gần nữa đêm, bỗng phòng kỷ luật tôi đang ở, bất ngờ có công an đến mở cửa, tiếng rầm rầm của cánh cửa sắt đã làm mọi người xung quanh đều thức giấc… Thình lình xuất hiện, một anh thanh niên ăn vận sang trọng, với bộ y phục màu đen, đầu đội chiếc mũ lưỡi trai màu đen, mắt đeo cặp kính đen, chân mang đôi giày Sandal bằng da cũng màu đen bóng lộn, và mùi nước hoa thơm ngát cả phòng giam, trên đôi tay với đôi còng số 8… Anh ta bước vào phòng và gật đầu chào mọi người rất lịch sự. Sau đó, anh bị cùm một chân nằm sát bên cạnh tôi, là người được cài cắm để thực hiện “Khổ nhục Kế” ắt hẳn anh ta đã biết tôi rồi! Nhưng vì nghiệp vụ nên anh khéo đóng kịch và giả vờ hỏi tôi: "xin lỗi! Anh tội gì ạ?” Tôi trả lời; “tôi tội Chính trị, tôi là thầy tu, ở chùa Vĩnh Bình Cái Dầy”.
Anh ta lanh lợi, kiểu đạo đức giả nói: “Mô Phật Bạch Thầy, con không biết, xin thầy hoan hỷ tha lỗi cho”. Tiếp theo anh ta tự giới thiệu với giọng lưỡi hết sức ngọt ngào thắm mùi đạo vị “Bạch Thầy, con tên Hồ Công Sơn, trước đây là lính Biệt động quân. Con là Huynh trưởng gia đình Phật tử, Pháp danh Tâm Nguyên, con thường xuyên sinh hoạt với Ban Đại Diện GHPGVNTN tỉnh Quảng Nam Đà Nẵng. Tối hôm nay con và người bạn gái thuê xe từ Sài Gòn về Bạc Liêu, trên tuyến đường ra biển để khuya nay xuống tàu đi vượt biên, thì bị Công an biên phòng chặn bắt. Họ giải con về đây”. Sau đó anh nói thêm: “sống không nổi dưới chế độ CS độc tài nên phải ra đi thôi thầy ơi! Chế độ nầy tàn bạo lắm!”
Vài ngày kế anh ta kể rất nhiều chuyện về Đạo Phật và hỏi thăm tôi về Trung ương GHPGVNTN, về ngôi chùa Vĩnh Bình tôi đang làm trụ trì, v.v… Anh có nhã ý giúp tôi, liên lạc với ai bên ngoài nếu cần, vì anh cho biết chắc sẽ được về sớm. Anh ta còn nói nếu tôi có cần bút, giấy, viết anh sẽ kiếm cho…nghe anh nói rất hay, nhưng có 3 điều tôi lấy làm nghi ngại:
1/ Tôi vừa trải qua một sai lầm chết người về anh Tiết Sa Rết, nên rất cảnh giác.
2/ Nhìn tướng mạo của anh, tôi thấy có cái gì hơi đểu, vì tóc quăn, môi trớt, tóc mai ngược trong sách gọi là “Tam Toạng” 3 điều lăng nhăng, xấu, tạp…
3/ Anh mới đến, mà anh nói anh tìm bút chì cho mượn, v.v…
Tôi tuyệt đối không tin Sơn. Tôi chỉ tâm sự những gì tôi đã khai với cơ quan chấp pháp. Thế là hơn 1 tháng, bị cùm kẹp, ăn uống khổ sở anh Sơn chẳng thu được kết quả gì, nên họ chuyển anh đi nơi khác. Cho đến 8 tháng sau, khi kết thúc điều tra, họ chuyển tôi về Cà Mau, thì anh cũng được chuyển đến nằm kề tôi để thăm dò tiếp hơn 1 tháng nữa. Có lẽ vì yêu cầu bức bách của ngành công an, anh đã để lộ liễu ý đồ của mình, nên không đạt được kết quả. Cuối cùng Sơn đã chuyển đi nơi khác… đến lúc 21 người trong vụ án của tôi được chở từ Cà Mau về Bạc Liêu để ra tòa sơ thẩm, khi xe chạy ngang ty công An tỉnh Minh Hải, chính mắt tôi thấy anh Hồ Công Sơn lái chiếc xe Honda, mặc bộ quần áo rất sang trọng chạy thẳng vào ty Công An một cách tự nhiên, sau lưng có chở một tên B2 của Bảo vệ Chính trị tỉnh. Đây là thủ đoạn và quỷ kế thâm hiểm của CS trong giai đoạn khai thác, điều tra xin nêu lên trong Hồi Ký này để mọi người cảnh giác.
2. ĐẤU KHẨU NẢY LỬA VỚI TÊN ĐỒ TỂ PHẠM MINH CHÁNH, TRƯỞNG BAN CHẤP PHÁP TY CÔNG AN MINH HẢI
Phạm Minh Chánh có biệt danh là Ba Lát Gừng, chức vụ trưởng ban chấp pháp vừa là một thành viên của ban chỉ huy ty công an. Nhiều người biết rành về ông ta đồn rằng, trước khi theo VC ông ta là thầy hốt thuốc Nam, và bất cứ thang thuốc nào của ông hốt đều có 3 lát gừng. Điều này đoán chắc có lẽ ông học toa thuốc Nam căn bản gồm 10 vị, cho nên trong đó lúc nào cũng có 3 lát gừng chăng! Mười vị thuốc Nam trong toa căn bản gồm: Chanh, muồng, má, mực, sả, bì, Mần trầu, ké, ngót, gia thì gừng tươi.
1/ Rễ tranh (Mao căn)
2/ Muồng (Nam đại hoàng)
3/ Rau má (Liên tiền thảo)
4/ Cỏ mực (Hạn liên thảo)
5/ Củ sả (Mao hương)
6/ Võ quýt (Trần bì)
7/ Cỏ mầng Trầu (Thanh tân thảo)
8/ Ké đầu ngựa (Thượng nhi tử)
9/ Bồ ngót (Đông phong thái)
10/ Gừng (Càng cương)
Theo lời người kể, toa thuốc trên do ông Ba Lát Gừng truyền lại và cho biết rằng từ khi ông Phạm Minh Chánh theo VC ông vẫn hành nghề hốt thuốc Nam ở trong chiến khu. Xét thấy ông ta có năng khiếu về điều tra khai thác cho nên sau đó ông được chọn vào ngành chuyên môn này. Ông Ba Lát Gừng là một tay già dặn, thuộc loại cáo già xảo quyệt, có nhiều kinh nghiệm và sành sỏi trong nghiệp vụ, nhưng không ít khuyết điểm bản thân. Những bạn bè cùng thời ông đều lên cấp trung ương riêng ông vẫn còn ì ạch leo dốc, đến nay đã bạc cả mái đầu chỉ mới cấp tỉnh thôi ! Hầu hết ban lãnh đạo ty công an là lớp người sau ông, nên họ rất vị nể. Ba Lát Gừng cũng còn nổi tiếng là tên chụp mũ chuyên nghiệp, có nhiều mánh khóe hướng cung, bức cung, mớm cung cũng chuyên nghiệp. Chính vì nhiều thủ đoạn thâm độc, và lắm mưu sĩ gian hùng cho nên ông đã đúc kết hồ sơ làm chết oan mấy mạng người vô tội lúc còn ở bưng biền. Do đó ông bị giáng cấp và vất vả bò chậm chạp cho đến bây giờ là trưởng ban chấp pháp ty công an. Nay ông được phân công trực tiếp điều tra vụ án của tôi. Thực ra đây là một cuộc đấu trí giữa kẻ bạo quyền và người thất thế, giữa kẻ chủ động được quyền hỏi cung và người bị động chưa chuẩn bị trước những câu trả lời. Tôi bị động vì tôi bị khai thác bất cứ lúc nào, ngày lẫn đêm và không biết trước ông ta sẽ hỏi những gì? Còn ông ta chủ động, là vì ông ta có quyền chất vấn điều tra bất cứ lúc nào và đã chuẩn bị trước những câu hỏi. Có chút may mắn là khi đang giúp đỡ hoạt động trong tổ chức, tôi luôn chuẩn bị tư thế sẵn sàng để khai báo nếu rủi ro bị bắt hoặc danh sách bị phát hiện, tôi sẽ khai với công an trong bốn trường hợp sau đây:
1. Khai những người đã chết cầm đầu tổ chức.
2. Khai những người đã đi vượt biên cầm đầu tổ chức.
3. Khai đối tượng cấp cao của cộng sản tổ chức.
4. Hoặc tạo cú sốc, để họ cho về phòng giam suy nghĩ lại chu đáo trước khi trả lời.
Chính vì vậy mà nhiều lần ông Ba Lát Gừng tỏ thái độ bực tức, vì khai thác không được kết quả. Có một lần nọ, ông điều tra và mớm cung tôi không được như ý, nên ông ngồi cắn móng tay. Có lẽ nói ông ta có tật cắn móng tay thì phải, vì ngày nào gọi tôi lên điều tra tôi cũng thấy ông cắn móng tay. Hôm ấy có lẽ quá căng thẳng và bực dọc lên đến đỉnh điểm nên ông hoàn toàn mất hết nhân phẩm, lời lẽ suồng sã, thiếu tư cách. Ông ta đã phát cáu dữ dội, hai gân cổ nổi thật to, nét mặt đỏ bừng ông ta giận đến run người. Ba Lát Gừng nhìn tôi và nói những lời thật khiếm nhã, thô thiển của những kẻ thất phu “Này chú Thiện Minh! tôi hỏi chú cách mạng từ trước đến giờ có đào mồ cuốc mả cha chú không? Cách mạng có hãm hiếp mẹ, chị gái, em gái của chú không? Mà chú tham gia vào tổ chức phản động để chống lại cách mạng vậy chú?”
Khi nghe qua những từ đao to búa lớn của ông mạt sát xúc phạm đến cả gia đình tôi, tôi biết ông ta đã hớ lời rồi và đã để lộ chân tướng của một nhà cách mạng chí sĩ dởm. Tôi mỉm cười nhạt bình tỉnh nói: “Này ông Ba, tôi từ nhỏ đến giờ chỉ tu hành không có tham gia chính quyền miền Nam nhưng đứng khách quan tôi muốn hỏi ông rằng: Chánh quyền Sài Gòn có đào mồ cuốc mả cha ông không? Chính quyền Sài Gòn có hãm hiếp chị gái, em gái của ông không? Tôi biết chắc chắn là không nhưng giả sử cho rằng mọi việc là có đi nữa, thì ông mới đứng lên tham gia cái gọi là “kách mệnh”. Nếu mọi việc là không, thì chắc ông không tham gia cách mạng chứ gì! Như vậy, ông tham gia cách mạng chỉ vì khi nào có đụng chạm đến quyền lợi cá nhân ông, chứ nếu đụng chạm đến quyền lợi của ai khác. Mà quyền lợi của riêng ông không bị ảnh hưởng thì chắc ông giả đui giả điếc tuyệt đối không bao giờ tham gia cách mạng phải không? Vì thế, nếu xét về sơ tâm khởi nguyên “Kách mạng” của ông, tôi thấy rất hẹp hòi vị kỷ, ông không xứng đáng tô điểm cho mình hai chữ “Kách mạng” và bình thường ông cũng không đủ tư cách ngồi ngang mặt làm việc với tôi đâu? Trừ trường hợp ông dùng quyền lực của kẻ mạnh”.
Khi tôi nói xong, ông Ba Lát Gừng hai tay như run lên ông nắm chặt bàn tay lại và đập mạnh xuống chiếc bàn làm việc, khiến các tờ giấy, bút để ghi chép khai cung văng xuống đất. Cặp mắt ông ta bốc lửa, nộ khí xung thiên và quát to: “Mầy! đồ bán nước, đồ lũ phản động, đồ ôm chân đế Quốc Mỹ làm tay sai cho sen đầm quốc tế, đội lốt tôn giáo để hại dân, hại nước, hại đạo hại đời Thiện Minh à! Một trăm thằng như mầy có chết cũng chẳng ai tiếc. Gia đình mầy nếu biết mầy có âm mưu chống cách mạng thì cũng còn muốn giết mầy nữa đừng nói chi ai khác. Mầy đi về phòng kỷ luật ngay”.
Tôi đứng dậy và nói “Thật là lố bịch, thiếu tư cách” rồi tôi đi ra cửa… ông ta lẽo đẽo đi sau lưng. Thông thường mọi hôm làm việc xong, ông ra lệnh cho một cán bộ vũ trang dẫn tôi về phòng giam, chứ chưa bao giờ ông ta đi theo như vậy! Khi về đến cửa phòng 8A, tôi khom mình vói lấy hai cái khoen cùm, định đem vào phòng để cùm chân như thường lệ… có lẽ ông chợt thấy bất ngờ, do quá cảnh giác cao nên ông vội chạy né tránh sang một bên miệng la to thất thanh hốt hoảng: “Tụi bay ơi ! Thằng Thiện Minh nó đánh tao”. Bất ngờ gặp phản ứng sai lệch bất thình lình của ông Ba Lát Gừng, nên tôi đứng yên tại chỗ, hai tay vẫn còn cầm hai khoen quyện và rất bình tỉnh giải thích, trong khi đó mấy tốp công an vũ trang nườm nượp chạy vào.
Tôi nói “Trong mấy tháng qua, mỗi lần đi làm việc về phòng, tôi đều tự mang hai khoen quyện vào để cùm chân, chứ tôi không có ý định đánh hay hành hung ông. Nếu muốn đánh ông thì tại phòng làm việc, chỉ đôi tay tôi thôi thì tuổi già 60-70 tuổi của ông làm sao chịu nổi, chưa nói chiếc ghế ngồi nếu tôi cần sử dụng”. Ông Ba Lát Gừng liền lập tức ra lệnh: “Anh nào trưởng buồng của phòng 8A hãy lập biên bản tên Thích Thiện Minh đã có thái độ hành hung ban chỉ huy ty công an và bảo toàn phòng phải ký tên”. Lúc ấy, trong phòng tôi có anh Nguyễn Văn Hùng làm trưởng buồng, nguyên là Đảng viên CS kiêm Hiệu trưởng trường Trung học tại huyện Vĩnh Lợi. Anh bị cầm tù vì “nghi án giết vợ”. Chứng kiến rõ ràng sự việc từ đầu đến cuối, anh Hùng liền lên tiếng phản đối mệnh lệnh của ông Ba Lát Gừng. Anh nói “Tôi là buồng trưởng phòng 8A hơn 3 năm qua. Tôi xin xác nhận một cách công tâm với quí ông rằng: Từ ngày ông Thầy Thiện Minh chuyển đến phòng này, mỗi lần đi khai cung về, ông luôn tự mang hai chiếc khoen quyện vào để cùm chân. Tất cả các anh em chung phòng đều thấy rõ, kể cả ông cán bộ trực khóa cũng biết. Cho nên, ông ban ra lệnh bảo chúng tôi lập biên bản và toàn phòng ký tên xác nhận, là ông thầy Thiện Minh có thái độ hành hung ông Ban là không đúng. Đây là một sự bức hiếp oan ức, vu oan giá họa làm hại người khác, chúng tôi phản đối điều này và không ký tên”.
Khi anh Hùng nói xong, ông Ba Lát Gừng đùng đùng nổi giận, bừng bừng đỏ mặt tía tai và buông ra những lời hăm dọa: “Thằng Nguyễn Văn Hùng mầy dám bênh vực cho tên phản động, mầy là thằng phản Đảng rồi mầy sẽ chết chứ ở đó mà phản bác phản biện, phản đối nữa. Rồi mầy sẽ biết tay tao! Đồ khỉ mà dám vuốt râu hùm hả!”. Nói xong ông ta bỏ đi lên phòng cảnh sát hình sự. Ông chỉ thị tên trưởng phòng là đại uý Châu Trọng Nam phải đích thân lập biên bản về việc tôi hành hung ông để lưu hồ sơ, sau này ra toà sẽ kết thêm án. Chiều hôm đó ông Châu Trọng Nam đem biên bản xuống phòng 8A công bố, khi công bố xong mấy anh em trong phòng nhìn nhau cười khẩy. Vài ngày sau ông Ba Lát Gừng tiếp tục gọi tôi lên làm việc. Tôi từ chối thẳng thừng là dứt khoát không đi và trả lời một cách thách thức với anh công an mở cửa: “Anh hãy nói lại với ông Ba Lát Gừng muốn cùm kẹp hay bắn giết thì cứ ra tay tôi nhất quyết không đi, trừ khi đem biên bản xuống phòng 8A xé trước mặt tôi cùng mọi người.
Hơn một tuần lễ sau, ông Võ Thanh Tòng tức Ba Trường Sơn phó ty công an trực tiếp xuống tận phòng mời tôi lên làm việc. Khi bắt đầu làm việc tôi thấy trên tay ông Ba Trường Sơn cầm tờ biên bản. Ông đưa cho tôi xem và bảo tôi hãy xé đi, ông nói: “Anh cố gắng làm việc với chú Ba Lát Gừng để sớm kết thúc điều tra, vì hơn 6-7 tháng rồi, còn phải đem ra xét xử chứ không lẽ ở kỷ luật hoài sao! Mọi việc xảy ra vừa qua giữa anh và chú Ba nên tạm gác bỏ cứ xem như là sự hiểu lầm thôi, hãy bỏ đi!” Sau đó, ông bước sang phòng bên cạnh mời ông Ba Lát Gừng vào và nói khéo vài câu vả lả nhằm làm dịu không khí căng thẳng giữa hai bên và cũng để tôi bằng lòng tiếp tục làm việc với ông Ba Lát Gừng. Liền khi đó ông Ba Lát Gừng miệng mỉm cười và hỏi thăm sức khoẻ tôi. Ông ta làm ra bộ như giữa tôi và ông ta không có chuyện gì… Từ đó về sau, ông ta rất cẩn ngôn, dè dặt khi điều tra. Tôi thấy miệng ông ta lúc nào cũng mỉm cười, nhưng tôi biết đây chỉ là "Tiếu lý tàng đao” ngoài miệng cười, trong lòng chứa gươm đao, chứ không phải là tốt bụng gì...!
CHƯƠNG 5
CÀ MÂU, NHÀ TÙ THỨ BA - BẢN ÁN SƠ THẨM BỊ ĐÌNH
T
ôi làm việc với ông Ba Lát Gừng thêm một tháng là kết thúc hồ sơ. Ty công an tỉnh Minh Hải ra lệnh áp giải tôi cùng một số anh em chung vụ án từ phòng cảnh sát hình sự ty công an Minh Hải chuyển về trại giam Cà Mau (Minh Hải là do 2 tỉnh Bạc Liêu và Cà Mau ghép lại). Các cơ quan chính của tỉnh đặt tại Bạc Liêu, Cà Mau xem như là Thị Xã nhưng trại giam tỉnh đặt tại đấy. Vì thế khi hoàn tất điều tra, họ đưa chúng tôi về trại giam tỉnh. Họ chở chúng tôi trên một chuyến xe vận tải nhỏ. Tuyến đường dài hơn 60 cây số, hai người còng chung một cặp còng số 8. Phía sau một xe hộ tống của công an vũ trang đi kèm và vài chiếc xe honda loại 90 phân khối chạy phía trước mở đường. Thời điểm lúc bấy giờ, đường quốc lộ gồ ghề lổm chổm, có nhiều ổ gà… còn chiếc xe quá cũ kỹ được trưng dụng lại nên xe chạy chậm rì. Mọi người ngồi trên xe cảm thấy muốn phát bực. Chúng tôi khá vất vả, mệt mỏi vì trời càng lúc càng tối mà chiếc xe lăn bánh chầm chậm trên đường chẳng khác rùa bò. Anh em vừa đói, vừa khát, có ngườI buồn nôn vì lâu quá không có đi xe, xe chạy khoảng độ 2/3 đoạn đường thì bị hỏng máy nên dừng lại hơn 2 giờ đồng hồ. Một chiếc xe áp giải phải chạy tăng tốc thật nhanh về Cà Mau để đem xe khác lên thay thế. Những tên công an bảo vệ tuổi 16-17, còn non choẹt trông có vẻ nóng lòng lo sợ. Các chú công an sợ chúng tôi bạo hành nên đến gần hơn để nói chuyện làm quen. Tôi biết được ý nên biểu tỏ vài câu để trấn an vì thấy các chú còn non trẻ lại xưng hô với chúng tôi rất lễ phép, có lẽ một phần vì quá sợ nên hạ mình chăng? Họ chột dạ vì vừa chờ đợi khá lâu vừa ngại vì tôi biết trong lòng họ đang lo lắng điều gì.
Riêng chúng tôi có niềm an ủi là gần 8 tháng qua, anh em chưa có điều kiện gặp mặt đông đủ như thế này. Cho dù xe có chạy chậm hay dừng lại cũng chẳng sao vì đây là cơ hội tốt để cho anh em có dịp hàn huyên và trao đổi một số vấn đề có liên quan trong những ngày bị câu lưu điều tra. Mọi người thông cảm cho nhau, vì ai nấy đều cùng chung cảnh khổ cả, mà người đau khổ nặng nề nhất về mặt tinh thần chắc chắn phải là tôi. Tôi khổ tâm nhiều bởi hoàn cảnh gia đình các anh em đồng vụ đều lâm cơn quẫn bách, cuộc sống bấp bênh, túng thiếu đủ mọi bề, vì “gạo châu củi quế” chế độ cộng sản là chế độ công hữu, nền kinh tế quốc doanh, tiêu dùng bằng tem phiếu, phải xếp hàng suốt buổi mới mua được một ít hàng. Có nhiều người dân bực tức nên đồn đại vài câu truyền khẩu rằng:
“Đả đảo Thiệu Kỳ mua cái gì có cái nấy
Ủng hộ Hồ Chí Minh mua đinh phải xin giấy”.
Thời ấy, nếu gia đình nào có ai bị tù về tội “Chính trị” tất nhiên gia đình ấy sẽ bị trù dập, bị kỳ thị, bị phân biệt đối xử, bị chính quyền ngược đãi đủ mọi bề, và coi như bị vứt bỏ bên ngoài lề xã hội. Thậm chí bà con thân tộc không dám đến gia đình hỏi han thăm viếng, vì sợ họa lây. Còn lối xóm kẻ nào có thế, có quyền thì lên mặt hống hách khinh khi cho nên gia đình phải gặp nhiều tủi nhục. Dưới chế độ CS mang tội “Chính trị” thì thấy tàn đời là chắc. Chỉ còn chút may mắn là có mẹ cha, anh chị em ruột thịt hoặc vợ có nghĩa hay con có hiếu kính mới dám đến thăm nuôi và không nỡ bỏ mình thôi! Nhưng vẫn không phải hoàn toàn tất cả, có những trường hợp đặc biệt vì lý do hoàn cảnh nghèo ắt cũng thiếu đi nghĩa cử… hay người vợ không thể đợi chờ vì kém đức thủy chung, v.v… Nếu hoàn cảnh xã hội không chuyển biến đổi thay thì các gia đình những công dân hạng 2 như chúng tôi chắc phải cam chịu “cùng đời mạt kiếp” không ngóc đầu lên nổi với xã hội có nhiều định kiến như hiện nay. Từ chỗ dân chúng quá bí bách trong cảnh lầm than khốn khổ, nên hễ đi đâu trông thấy treo trang trọng hình ảnh của Cụ Hồ, hoặc làm đền thờ, đúc tượng bằng Thạch cao lộng kính, hay tượng đồng làm tốn hao biết bao tiền của nhân dân, thì dân chúng nảy sinh nhiều bức xúc thán oán nói lái rằng:
“Đại thắng lợi bác Hồ lộng kiếng
Đợi thắng lại bác Hồ liệng cống”.
Hoặc thấy chế độ tham nhũng tràn lan dân kêu ca nói lái trách cứ như sau:
“Bảng đỏ sao vàng”
nay đổi thành
“bỏ đảng sang giàu”.
Có người còn làm thơ truyền tụng dân gian rằng:
Theo bảng đỏ tham giàu rồi bỏ đảng
Thích sao vàng nhũng lạm để sang giàu!
Kháng chiến lâu dài nên khiến chán cho mau
Dân chủ giả giũ chân sao kịp nữa!
Thi đua mãi, thua đi từng hàng bữa
Chính mi làm dân khổ Chí Minh ơi !
Độc lập bây giờ chỉ đập lột mà thôi...
Không độc lập, tự do thời không hạnh phúc !
Chí công vô tư là mỹ từ làm ô nhục
Nhìn bề ngoài, trong gỗ mục phết sơn !
Nói yêu thương mà trong dạ căm hờn
Nói nhân đạo, dạ quen lờn lừa phỉnh !
Không Cần, Kiệm, không liêm, không chính
Quên cội nguồn, dân tộc tính Việt Nam !
Thuyết rất hay, nhưng thực tế mấy khi làm
Bởi bản chất và túi tham không đáy !
Đưa tổ quốc đến bần cùng bức hại
Đến ngày tàn, còn ôm mãi viễn vông !
Nếu thành công thì cả đại dân tộc thành công
Còn cộng sản chỉ mưu hòng lợi dụng !
Nay thực tế đã phơi bày công chúng
Lịch sử còn, nhân chứng hãy còn đây !
Kìa nhìn xem hàng vạn kẻ tù đày
Bao tội lỗi khó mờ phai trong sử sách...!
1. HOÀN CẢNH BI ĐÁT CỦA GIA ĐÌNH
R
iêng gia đình tôi thôi… thì bị chính quyền địa phương ở khóm, ấp, phường khống chế, trù dập, miệt khinh đủ thứ. Họ lấn áp đủ mọi thứ nào là chiếm đất, rào giậu lấn qua ranh giới thổ cư, lên tiếng sách nhiễu bức hiếp đe dọa đủ mọi điều, nhất là Bùi Minh Quyền tức tên Tư Quyền là anh em của tên trưởng công an huyện Vĩnh Lợi là Bùi Văn Lẹ. Tư Quyền dựa thế nên coi trời bằng vung. Ngoài ra, Tư Quyền còn có người con rể tên Tiến cũng thuộc loại gian manh hiểm độc, cả xóm ai cũng kêu ca căm phẫn. Chủ tịch phường 7, tên Huỳnh Hoàng Lâm ra lệnh giải tỏa nhà để chiếm làm chợ họ qui kết là gia đình phản động, còn đất đai họ cho là phi pháp thiếu giấy chứng từ. Lý do nói khéo của họ trong giấy quyết định giải tỏa là: “Vì trật tự an toàn giao thông đô thị căn cứ nghị định số 36, chỉ thị 317 của Thủ Tướng Chính phủ và chỉ thị 20 của UB tỉnh”, nhưng thật ra thì nhà đất của em tôi không có ảnh hưởng gì đến sự an toàn giao thông cả. Quyết định giải tỏa phải thực hiện trong vòng 3 ngày kể từ ngày 7/8/1995 đến ngày 10/8/1995 nếu chậm trễ sẽ bị xử lý theo nghị định xử phạt hành chánh của thủ tướng chính phủ. (lệnh giải tỏa trong phần phụ lục)
Vì hoàn cảnh quá khổ nghèo do thảm trạng xã hội, nên gia đình tôi gồm:
- Em thứ 7 của tôi tên Nghĩa phải nghỉ học để đi bán bánh mì dạo nuôi gia đình.
- Em thứ 6 tên Nhiều phải đạp xe vua, loại xe phải đạp bằng 2 chân, phía sau có gắn cái thùng để chở thêm được vài người.
- Em thứ 5 mới lập gia đình hơn 1 năm, vừa sinh được một bé gái, bị nghi ngờ có liên quan vụ án nên đã bị tù.
- Em gái thư Tư bán mía, khoai, cóc, ổi… trước nhà.
Mẹ tôi tuổi cao sức yếu lại bị bệnh thường xuyên vóc người mỗi ngày một gầy mòn, thân hình tiều tuỵ lo buồn vì chồng, vì con, tức cha tôi vừa qua đời cách đây mấy tháng, nay đến tôi và đứa em trai thứ Năm đều bị tù tội. Một điều xót xa là các em tôi còn thơ ngây nhỏ dại đang trong lứa tuổi cắp sách đến trường, tuổi chỉ biết ăn, biết học, biết chơi. nay đành từ giã mái trường để tìm kế sinh nhai, vừa nuôi mẹ già đang đau yếu, vừa dành dụm ít tiền hàng tháng để đi thăm nuôi 2 người anh đang ở tù tận mũi Cà Mau. Có những hôm em Nghĩa bán bánh mì bị ế vì trời mưa, phải ghé vào các ngôi chùa Khmer ở Sóc Đồn Bạc Liêu năn nỉ quí sư sãi xin đổi gạo để chiều về cho mẹ nấu cơm. Hôm nào không đổi được gạo đành đem bánh mì về ăn hoặc chỉ mua ít gạo cùng khoai lang để nấu cháo thay cơm, cho qua ngày đoạn tháng. Em trai tôi là một học sinh hiền lành ngoan ngoãn, học rất giỏi, không những lễ phép với thầy cô mà còn rất có tình có nghĩa với bạn học cùng lớp và rất mực hiếu thảo với mẹ cha. Em học luôn đứng nhất, nhì trong lớp lại được bầu làm trưởng lớp nữa! Nhưng vì hoàn cảnh… nên lỡ dỡ việc học hành. Có những buổi đi bán bánh mì ngang qua trường cũ, em cố đi qua thật nhanh, và kéo chiếc nón sụp khỏi vành tai để cho các bạn đừng nhìn thấy. Thật ra trong lòng em rất tiếc nuối và rạo rực trào dâng một nỗi niềm nữa vui nữa buồn khôn tả. Em hình dung lại hình ảnh của thầy cô, của bạn bè … đôi chân em dường như muốn chùn lại, nước mắt lưng tròng.
Một hôm cô giáo chợt trông thấy gọi em vào, chúng bạn cùng lớp vui mừng quấn quýt hỏi thăm, sau đó cô giáo lên tiếng kêu gọi các em học sinh hãy mua bánh mì giúp bạn. Hôm ấy gặp dịp may nên bánh bán hết sớm. Trên đường về nhà, lòng em lâng lâng nhẹ nhõm khoan khoái vì đã bán hết bánh rồi! Nhưng, vài phút sau đó trong lòng em lan tỏa một nỗi buồn man mác … bởi bất ngờ gặp lại thầy cô cùng các bạn và đón nhận tất cả những tình cảm thân thương mà mọi người đã dành cho em. Mấy hôm sau, cô giáo đến tận gia đình gặp mẹ tôi nhằm động viên để em Nghĩa tiếp tục học hành, cô giáo nói “nhận thấy em Nghĩa học hành chăm giỏi, tánh tình ngoan hiền mà bỏ dỡ việc học nữa chừng thì uổng quá! Nếu hoàn cảnh gia đình có khó khăn thì cô giáo sẽ đóng góp một phần để giúp đỡ như mua tập, sách, bút, v.v… hay giúp một phần tiền đóng học phí để em tiếp tục cắp sách đến trường” cũng may, nhờ những tình cảm và sự quan tâm của thầy cô, em tôi mới được tiếp tục đi học cho đến ngày tốt nghiệp THPT và xin vào ngành sư phạm, ghi đến đây… khiến tôi nhớ lại những mẫu chuyện kể ngày xưa của các bậc cha ông về “Đạo nghĩa thầy trò” thật là quí hiếm vô cùng, trong cái xã hội khốn cùng này vẫn còn có số người thể hiện được những tấm gương sáng về "Đạo làm thầy”...
Mặc dù 26 năm tù mới trở về, tôi chưa có dịp gặp và viếng thăm để tỏ lòng biết ơn cô giáo của em tôi. Nhưng tôi hằng đêm vẫn thầm nguyện cầu cho những ai là ân nhân đối với bản thân tôi hay gia đình, mẹ già cùng các em dại trong thời điểm gia đình đang sống cảnh cơ hàn khốn khó, dưới mái tranh nghèo, sống hẩm hiu và chịu đựng biết bao tủi nhục, đau buồn bởi ách cai trị khắc nghiệt và nhũng lạm của các ông quan cộng sản địa phương. Nguyện chư Phật gia hộ cho quí ân công được an lành vạn phúc.
2. TRẠI GIAM CÀ MAU & NHỮNG CHỨNG TÍCH THƯƠNG ĐAU SAU NGÀY 30.4.1975
Trại Giam Cà Mau là nhà tù của chế độ cũ để lại, những song sắt thưa nên thoáng rộng và mát mẻ, trại được xây dựng đúng tiêu chuẩn về diện tích, không khí và ánh sáng lẫn nhà vệ sinh, v.v…Tuy nhiên vào thời gian này người người khắp các tỉnh, thành đổ xô về đất Mũi để vượt biển ra đi, người đi thoát cũng nhiều, người bị chìm tàu chết giữa đại dương chẳng ít. Số người bị bắt thì hàng ngày một vài trăm người có đủ mọi tầng lớp thiếu, thanh, phụ, lão, ấu có cả tu sĩ, văn nghệ sĩ trí thức,học sinh,sĩ quan binh lính.v.v…Cho nên dầu là song sắt có thưa, có thoáng mát nhưng phòng quá đông người nên cũng khó thở, không khí vẫn ngột ngạt, ghẻ chóc lây lan bởi vì khan hiếm nước… mọi người tắm giặt chung trong một thau nên ghẻ ngứa ghẻ mủ nổi lên khắp thân thể.
Chúng tôi đến trại giam Cà Mau cũng phải chấp hành theo một qui định “Nhập gia tùy tục”, một qui định bất thành văn, rất tàn nhẫn, phần lớn do những tên trưởng buồng tự biên tự diễn, tự đưa ra điều lệ rất nghiệt ngã để bắt buộc mọi người phải biết cư xử, nể trọng bọn chúng. Qui định trại giam Cà Mau cũng giống như trại giam huyện Vĩnh Lợi, người tù nào mới đến đều phải nằm ở gần cầu vệ sinh, tôi chuyển đến đây cũng ở phòng 2 và cũng nằm gần cầu vệ sinh theo qui định. Vì phòng quá chật nên nằm ngủ phải trở đầu nhau, những ngày đầu tiên, ngủ chung 5-6 người trong 1 chiếc mùng nhỏ, đêm nào tôi cũng bị các anh nằm hai bên gác đôi chân đầy ghẻ mủ trên mặt. Buổi sáng thức dậy còn nhớt nhợt, nhơm nhớp trên mặt trên đầu kể cả những miếng vảy (mày) ghẻ, bốc mùi hôi tanh gớm ghiếc. Có hôm buổi sáng chẳng có nước rửa mặt, mới đáng tởm làm sao! Vả lại theo qui định nơi đây người mới đến đều bị trong vòng “cô lập” một thời gian. Tất cả mọi cử động, đi, đứng, nằm, ngồi, tiểu, tiện, kể cả nói chuyện với người bên cạnh cũng phải xin phép anh tổ trưởng. Mỗi phòng được tổ chức một ban đầu toán gồm 5 người.
- 1 Toán trưởng
- 2 toán phó
- 1 an ninh buồng
- 1 thư ký buồng
- 1 trật tự vệ sinh
Trong phòng chia ra nhiều tổ, mỗi tổ có 1 tổ trưởng và 1 tổ phó. Ban đầu toán là người ăn trên ngồi trước, hưởng đủ mọi quyền lợi ưu tiên, người có thăm nuôi phải đem quà để biếu xén. Họ có quyền nên đưa ra nhiều qui định rắc rối, họ nói ban giám thị tin nghe, họ vòi vĩnh những người có thăm nuôi như quà cáp, tiền bạc, v.v… Mọi người trong phòng nếu không có trách nhiệm được Ban đầu toán công cử thì sáng sớm thức dậy đã bị bắt buộc phải ngồi tại chỗ, học nội qui, ngồi cho tới trưa và từ 1 giờ 30 cho đến 5 giờ chiều, ngồi đến chai đít “chai như đít kh ”. Ban đầu toán ra lệnh phải ngồi trong tình trạng “cô lập” cho đến khi nào thuộc nằm lòng bản Nội quy và còn phân tích được rốt ráo ý nghĩa sẽ được xem xét nới lỏng từng bước. Ngoại trừ những người nào bệnh nặng có xin phép được sự đồng ý của Toán trưởng buồng giam mới được nằm. Hằng ngày, ban đầu toán ngồi chễm chệ uy phong có người phục vụ, trông cảnh ấy thật là chướng tai gai mắt. Không có gì bực mình hơn khi mang tội danh đấu tranh chống bất công xã hội mà khi sa cơ vào tù lại gặp bất công lộng quyền ngay trước mặt hằng ngày. Đáng phê phán và lên án miệt khinh những tên mang tội “Chính trị” mà lại phỉnh nịnh, a dua tâng bốc để được ưu đãi nhẹ nhàng lại còn lên râu bắt chẹt, hiếp đáp những người cô thế.
Có điều thực tế nói ra tôi càng thấy đau lòng, nghẹn lời nhưng phải nói: “Những người làm trưởng buồng mà tôi đã trải qua tại phòng 2, trại giam Cà Mau, nếu họ là người của chính quyền chế độ cũ đều hoàn toàn gian giảo và thâm độc, phần đông tánh tình ích kỷ hẹp hòi. Có lẽ họ quá sợ liên lụy trách nhiệm nên không dám quan tâm giúp đỡ đồng tù, nhất là những người tù chính trị. Không những thế mà có khi họ còn cười cợt tù chính trị cho là “bẻ nạng chống trời”, v.v… Nên người nào được chỉ định làm trưởng buồng họ tuân thủ nội qui 100% và tạo cho mình một chỗ đứng đầy quyền uy để tận hưởng.
Tôi không muốn kể tên những người có thành tích bất hảo ấy trên trang giấy này vì lòng từ bi. Ngược lại thật trớ trêu, nếu những người cộng sản, có công kháng chiến sai phạm pháp luật bị tù mà làm trưởng buồng thì phần lớn tánh tình rộng rãi, giảm bớt nhiều qui định khắc khe, tạo không khí cởi mở, hài hòa, dễ chịu ít căng thẳng trong phòng. Đây là điều khiến tôi có nhiều trăn trở và viết lên sự thật vì chính tôi là người trong cuộc. Mặc dầu ở nhiều nơi khác trong toàn quốc, nhà tù mọc lên như nấm, không biết có khác hơn không… Chứ sau ngày 30/4/1975 hàng vạn binh sĩ miền Nam đã bị bắt đi cải tạo, nhiều người đã bị chết dần chết mòn trong các trại tập trung và nhiều người đã bị đem đi hành quyết. Bên cạnh đó với chính sách cải tạo công thương nghiệp “Cải tạo tư sản” nhà cầm quyền VN đã sung công quản lý tước đoạt tài sản của nhân dân. Trên danh nghĩa là thu vào công quỹ nhưng thực chất là bỏ vào túi riêng "Túi tham không đáy” của những tên tham nhũng cho nên đã tạo ra một tầng lớp mới đó là “Tư bản đỏ”. Nhiều người quá tiếc của đã toan tự tử hoặc trở thành kẻ trắng tay, hay bị tâm thần điên loạn, hoặc bỏ nước ra đi, sống tha phương cầu thực nơi đất khách quê người. Những nỗi khó khăn chồng chất thêm cái cảnh mẹ góa con côi, những thương binh tật nguyền, nhất là các trẻ mồ côi phải lang thang nơi đầu đường xó chợ sống trong cảnh “Cầu sương điếm cỏ” của thời loạn ly vì họa CS. Nhiều trẻ em trở thành kẻ phạm tội, vì vi phạm pháp luật cho nên trong tù có những em bé tuổi mới lên 10. Chúng được gởi vào các trại giáo dưỡng. Hai từ "giáo dưỡng” nghe có vẻ thanh tao, nhưng những trận đòn roi và mọi hình thức kỷ luật cũng lắm khắt khe, cũng cưỡng bức lao động cũng cùm quyện, v.v...
Thời kỳ này người vượt biên bị bắt quá đông, không đủ chỗ giam giữ, những người bỏ nước ra đi từ 2 đến 3 triệu người. Họ đánh đố số mạng của mình với sóng to gió lớn của đại dương, nhiều người đã bị chết chìm trên biển, bị cướp bóc, bị thảm sát, bị hãm hiếp (hãm hiếp cả phụ nữ lớn tuổi cho đến các em bé gái còn ngây thơ bé bỏng chưa đến tuổi vị thành niên). Họ thà thử nghiệm trong cơn hiểm nguy “Thập tử nhất sinh”còn hơn sống dở chết dở dưới chế độ độc tài toàn trị. Thảm trạng thuyền nhân VN đã chết trên biển Đông, và gần 300.000 người tạm trú trên Đảo Pulau Bidong trong những cuộc ra đi tìm tự do. Tất cả là những bằng chứng mãi mãi ghi vào trong ký ức của mọi người dân Việt như là những chứng tích đau thương của một giai đoạn lịch sử do CS độc tài sắt máu gây nên.
Sau 30-4-75 các phong trào yêu nước tự phát đứng lên đấu tranh cho tự do dân chủ, nhân quyền, đa nguyên đa đảng, đã bị nhà cầm quyền CSVN bắt bớ giam cầm. Họ đã bị truy tố xét xử với những bản án khổ sai lưu đày biệt xứ và bản án tử hình (tử hình không loại trừ phụ nữ có mang thai). Tỉnh Minh Hải lúc bấy giờ nhà đương quyền xây dựng thêm nhiều trại tập trung cải tạo, có những địa điểm tới tận rừng sâu… Công an trại giam càng ngày càng đông, vẻ mặt lúc nào cũng đằng đằng sát khí, vì nhà nước Việt Nam điều hành chính quyền bằng Công an trị… còn Trung ương Đảng CS thì tuyệt đối trung thành với Chủ nghĩa Mác Lênin. Họ tôn thờ Chủ nghĩa ngoại lai mù quáng, một học thuyết bần hàn, không tưởng, lạc hậu lỗi thời, không phù hợp với truyền thống dân tộc, tình dân tộc nghĩa đồng bào hay tổ quốc chỉ là danh từ đầu môi chót lưỡi của những kẻ cuồng vọng phi nhân. CSVN chuyên quyền độc đoán, độc quyền về chính trị, báo chí, thông tin. Mọi người dân đều mất hết quyền tự do. Những quyền căn bản của người dân bị tước đoạt, nhân quyền bị chà đạp, không có quyền tự do ngôn luận, lập hội, tư tưởng, tôn giáo, v.v… Họ luôn duy trì chế độ độc Đảng để đè đầu cưởi cổ nhân dân, họ thao túng trên chính trường để chia cho nhau tận hưởng quyền và lợi.
3. PHÚC TRA VỚI 2 ÔNG THIỆN VÀ ÁC… CÁO TRẠNG RA TÒA LẦN THỨ HAI
Những ngày tôi bị thuyên chuyển đến trại giam Cà Mau, trước nhất sự thăm nuôi của gia đình khá vất vả vì đường xa và tôi vẫn còn phải bị phúc tra với hai tên chấp pháp là Trần Văn Ơn và Lâm Quang Dũng để xác định lần cuối cùng kết quả điều tra lần đầu. Trước khi cơ quan điều tra kiến nghị khởi tố lên viện kiểm sát nhân dân Minh Hải, hai tên Ơn và Dũng tôi xem như hai ông thiện và ác. Trần Văn Ơn là con rễ của Nguyễn Viết Thống, Trưởng ty công an tỉnh Minh Hải, tên này có sở trường nâng quan điểm và chụp mũ luôn lấy cái “lý của kẻ mạnh” để buộc tội, một tên thâm hiểm, gian ác và tán tận lương tâm. Hắn ta lúc nào cũng muốn người bị làm việc với hắn đều phải thọ lãnh bản án “Tử hình” để chứng tỏ thái độ chuyên chính vô sản của y. Theo anh em kể lại, Trần văn Ơn đã quy tội làm chết gần 20 người rồi, Ơn kết luận tôi 5 điểm như sau:
Huỳnh Văn Ba có tên gọi khác trong đạo Phật là Thích Thiện Minh, động cơ và nguyên nhân dẫn đến phạm tội của anh là:
1/ Vì hấp thụ tư tưởng của đế quốc Mỹ ở miền Nam Việt Nam.
2/ Vì ảnh hưởng của nền giáo dục phản động và lạc hậu của ngụy quyền Sài Gòn.
3/ Vì theo GHPGVNTN, một giáo hội đã từng là CIA của Mỹ và chủ trương chống cộng.
4/ Vì bản chất cực đoan, kỳ thị chế độ của dân, vì dân và do dân nên đã mưu đồ rắp tâm lật đổ chế độ.
5/ Vì đã từng chống đối lại chính quyền địa phương và có hành vi hạ cờ nhà nước, phản đối thành lập Ban đại diện GHPG trực thuộc Tôn giáo vận và Mặt trận tổ quốc.
Chỉ bấy nhiêu thôi, hắn ta muốn tôi phải lên đoạn đầu đài, chứ không còn chừa đất để sống nữa! Riêng anh Lâm Quang Dũng thì kết luận có khác, anh Dũng đúc kết lần cuối 3 điểm như sau:
1/ Vì đường lối của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ nghĩa Việt Nam không đi đúng theo di chúc của Chủ Tịch Hồ Chí Minh.
2/ Vì nhà nước CHXHCNVN không thực hiện đúng chính sách, như những lời cam kết và hứa hẹn của Bà Nguyễn Thị Bình, Bộ trưởng bộ ngoại giao của chính phủ Cộng Hòa Miền Nam VN, để cho miền Nam sống trong 5 năm trung lập.
3/ Vì lấy cớ cho là Nhà Nước CHXHCNVN đã có ý đồ đàn áp tôn giáo, trong đó có GHPGVNTN và đã bắt giam một số thành viên của Giáo Hội Trung ương dựa vào những lý do trên, nên nhà tu đã tìm hướng khác mà đi.
Qua sự đúc kết này, tôi không biết có phải là bằng chứng để Viện kiểm sát đề nghị bản án có sự châm chước tôi chăng?
4. CUỘC ĐẤU KHẨU VỚI VIỆN TRƯỞNG VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH MINH HẢI
Sau khi làm việc hơn một tuần lễ với hai tên chấp pháp nói trên…cho đến gần một năm sau đó tôi có làm việc với ông Nguyễn Ngọc Cơ tự là Sáu Búa, Viện trưởng viện kiểm sat nhân dân tỉnh Minh Hải.Tôi muốn tâm sự ngoài lề một chút, sở dĩ ông ta có biệt danh là Sáu Búa vì thời kỳ còn hoạt động trong rừng ông này phụ trách thi hành án tử hình. Một hôm nọ, tòa án xử tử hình một bà lão trên 70 tuổi, tuổi đã gần đất xa trời, cụ bà bị khép vào tội ” làm điềm” tức là chỉ điểm cho quân đội VNCH …đáng lý ra ông ta thi hành án xử tử bằng mã tấu, nhưng đây là phiên tòa nhân dân lưu động đặc biệt, nên khi xử xong là thi hành án ngay. Hôm đó ông không đem theo mã tấu bên mình, nên đành tạm mượn 1 chiếc búa của dân làng. Ông phải cật lực và ra đòn đúng 6 nhát búa cụ bà mới tắt thở; có người cho rằng cụ bà bị hàm oan nên khi chết đôi mắt cứ mở trao tráo, mà không chịu nhắm nghiền lại. Cho nên ông ta “chết danh” với tên Sáu Búa và cho đến khi ông làm ở Viện kiểm sát hễ bất cứ ai làm việc với ông ta thì chắc là khó sống, vì tội nhân chỉ nghe danh thôi thì đã khiếp đảm, rỡn tóc gáy rồi!
Hôm nay tôi làm việc trực tiếp với ông ta, tôi cũng đã tiên liệu trước số phận của mình sẽ đi về đâu ! Trước khi bắt đầu kiểm tra, chất vấn và xác minh lại một số vấn đề có liên quan đến vụ án, ông đã biểu thị thái độ nghiêm nghị, miệng cắn chặt răng, nét mặt hơi cau lại. Sáu búa mắt nhìn tôi đăm đăm, lấy tay ra dấu hiệu, mời tôi ngồi… Khi tôi đã ngồi, ông ta tự gật đầu với dáng bộ nghênh ngang, ngồi chéo chân lắc lư cử động và tự giới thiệu là viện kiểm sát tỉnh Minh Hải đến làm việc lần cuối trước khi đưa ra tòa xét xử. Câu đầu tiên sáu Búa hỏi tôi:
“Anh có sợ chết không?”
Tôi trả lời: “Mọi người trên đời này chỉ chết có một lần, nhưng ai ai cũng muốn sống, và cũng chẳng có ai sống mãi trên đời, nhưng sống hay chết như thế nào để có ý nghĩa, có ích cho đời đó mới là điều quan trọng bởi vì “Tử đắc kỳ sở”. Tôi làm việc này để đồng bào được sống đúng ý nghĩa của con người, đúng với Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền theo nghị quyết 217A ngày 10-12-1948″.
Ông ta hỏi tiếp: “Sống đúng với ý nghĩa của Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền là như thế nào?”
Tôi trả lời: “Phải có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Dân quyền không bị tước đoạt, giá trị nhân phẩm của con người không bị chà đạp, mưu cầu hạnh phúc bằng sự chân chính chứ không phải tóm thâu của kẻ khác đem về cho mình làm chủ”.
Ông ta lại nói tiếp: “Nhưng, nếu chúng tôi đem anh xét xử với tội chết thì anh nghĩ thế nào?”.
Tôi trả lời: “Nếu cần phải sống cho sự nghiệp và lý tưởng được sống mãi ta phải cố sống và nếu cần phải chết cho sự nghiệp và lý tưởng được sống mãi, đôi lúc ta cũng vui vẻ chết, đó là sự dũng cảm hy sinh để trở thành bất tử, đối với nhà tu là thánh hóa linh hồn”. Sau đó tôi lại nói tiếp: “Vả lại ông biết rồi đạo Phật chúng tôi chết là giải thoát”.
Ông ta nói: “Thôi đừng giảng đạo ở đây nữa, chừng nào về chùa cứ mà giảng đạo, sợ không chịu nổi nửa mức án, chứ làm gì có thể về chùa”.
Thời gian làm việc hơn nửa giờ đồng hồ, hai bên cứ đấu lý qua lại vẫn chưa đi đến đâu. Ông ta lườm nguýt tỏ vẻ khó chịu và hỏi tiếp: “Anh cho biết ai là người đứng đầu tổ chức Trung ương của anh?”
Tôi trả lời: "Ở Trung ương có Thượng Tướng Trần Văn Trà và Bà Nguyễn Thị Bình”.
Ông ta đổi sắc mặt lấy tay vỗ bàn và nói một cách hằn học: "Tại sao anh lại dám khai hai đồng chí cao cấp của tôi, trong khi hai đồng chí này có mấy chục năm tuổi Đảng, đã đóng góp nhiều cho cách mạng để đem đến sự thành công vẻ vang như ngày hôm nay, mà anh cho rằng phản động như anh vậy à! Tại Sao anh không khai cả tôi luôn đi, tôi tên là Nguyễn Ngọc Cơ tức Sáu Búa nè!”
Khi nghe xong tôi tỏ thái độ và cử chỉ hơi nghiêng mình, như đang ngắm nghía chăm chú kỹ càng một việc gì. Tôi nhìn ông ta bằng cặp hơi nheo mày, nhíu mắt lại và nói: "Xin lỗi ông tôi không phải là quan, chứ nếu tôi là quan thì tướng mạo của ông xin làm lính tôi, tôi cũng không nhận, thì khai ông làm gì?” Có lẽ bị cú sốc bất ngờ như xối gáo nước lạnh vào mặt, ông Sáu Búa liền vói tay chụp lấy cái bình trà để trên bàn và dự định ném vào người tôi.
Tôi rất bình tỉnh và nói: “Tư cách một ông Viện trưởng viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, mà có hành vi thất sách đối với người tù chính trị tôn giáo như tôi à!”.
Ông ta bừng tỉnh, dừng tay lại và quát to: "Đồ ngoan cố, mầy là tên phản động, chuyên khuấy đục và bôi bẩn Đảng, mầy về đi!”.
Tôi biết ông ta bảo tôi về phòng giam, như tôi giả vờ và nói: “Tôi thật cảm ơn ông” rồi từ từ đi khoan thai ra cổng trại giam, tôi đi một cách tự nhiên xem như chẳng có việc gì… Từ phòng làm việc ông Sáu Búa vội vã chạy vù ra trước sân thật nhanh và nói: "Ê ! anh đi đâu vậy!”
Tôi trả lời: “Đi về chùa, vì ông mới vừa bảo tôi anh về đi mà!”.
Ông ta lớn tiếng: "Tôi bảo anh về buồng giam chứ ai bảo anh về chùa hồi nào? Tội anh là tội chết, thứ ở tù rục xương mà đòi thả về à! Đồ bướng bỉnh, ngoan cố, loại cứng đầu giờ này mà còn làm bộ vờ vịt nữa hả!”
Sau khi làm việc với ông Sáu Búa, gần 3 tháng tức vào năm 1981 tôi nhận bản cáo trạng do cô nữ thư ký của tòa án nhân dân tỉnh Minh Hải đem đến tống đạt, và hơn tuần sau tôi nhận giấy quyết định xét xử của tòa án… tất cả chúng tôi gồm 21 người, ở 11 phòng khác nhau, mọi người đều chuẩn bị tư thế… vào ngày cuối trước khi lên đường về Bạc Liêu để xét xử. Những người bạn tù ở tất cả 11 phòng giam nói trên họ gởi quà biếu thức ăn, nước uống… vì đây là một thông lệ dành ưu tiên cho tội "chính trị” nhằm khích lệ tinh thần của các anh chị em vững tâm khi ra trước vành móng ngựa. Họ dùng một chiếc xe tải loại to được phủ kín để áp giải 21 người, theo sau có đoàn xe vũ trang tay súng sẵn sàng, công an mặc sắc phục tề chỉnh, mang đủ loại vũ khí, bảng tên luôn đeo trước ngực. Tự nhiên tôi nhớ lại một bài thơ tù từ thời còn bé của ai đó mà tôi đã quên tên tác giả:
Chẳng mất tiền mua cũng được khiêng
Vua quan, lánh mặt trẻ già kiêng
Đi tiêu có kẻ canh lầu phụng
Nằm ngủ có thằng gác động tiên
Ô tô xe Jeep vài ba chiếc
Đưa đón nhịp nhàng như cảnh thiên
Bánh, cơm chẳng tốn xu nào cả
Vinh hạnh còn hơn chốn cửa thiền.
Khi đến Bạc Liêu, chúng tôi ở tại phòng giam cảnh sát hình sự tỉnh. Nơi đây chúng tôi đã từng ở 2 năm về trước. Tôi còn gặp lại một vài thường phạm quen mặt, hầu hết là những người có án nặng. Ngoài ra, số người tù mới bị bắt vào tuổi trên 60-70 cũng khá nhiều, còn tuổi 13-16 khoảng vài mươi cháu, mọi người quần áo rách nát, thân thể gầy còm, nước da xanh xao tiều tụy, ghẻ chốc mọc đầy mình…
Chúng tôi được thông báo sẽ bị xử công khai tại thị xã Bạc Liêu để làm gương cho công chúng. Theo kinh nghiệm của những người ở tù lâu khi nhìn xem bản cáo trạng họ đoán chắc chắn tôi sẽ bị “tử hình” nếu căn cứ vào sắc luật 03 khoản A. Tám giờ sáng ngày mai là phiên tòa xét xử, tối đêm ấy tôi không sao ngủ được, đôi mắt cứ mở trao tráo, đầu óc suy nghĩ vẩn vơ ý tưởng không tập trung. Tôi cố nằm niệm Phật và trông chờ trời sáng để xem số phận của mình rồi sẽ ra sao! Nhưng bất ngờ, sáng sớm hôm sau, có hai chiếc xe du lịch chạy đến phòng cảnh sát hành sự tôi trông thấy có 4 người lạ xuất hiện, họ ăn mặc thường phục trông rất gọn gàng đi ngang và ngó vào phòng giam của chúng tôi. Sau đó họ quay lại ra lệnh cho công an trại giam, bảo 21 người chúng tôi phải mặc quần áo nhanh chóng ra xe, hai người chung một chiếc còng số 8, khi ra tận xe lúc ấy chúng tôi mới được thông báo là phiên tòa đã bị đình hoãn và chúng tôi lại quay về trại giam Cà Mau. Ba tháng sau, tôi nhận được quyết định và bản cáo trạng thứ hai xử theo sắc luật 03 khoản A+B, những người đồng tù cho biết những điều khoản như vậy hy vọng là án chung thân, tuy nhiên cũng chưa chắc chắn thoát khỏi án tử, duy có điều địa điểm xét xử tại tòa án, chứ không phải công khai tại thị xã Bạc Liêu như trước. Lúc bấy giờ anh,chị em ở các phòng giam lại một lần nữa gởi tặng quà biếu cho 21 người chúng tôi để liên hoan đưa tiễn. Mọi người còn gởi quà kèm theo nhờ tôi chuyển đến biếu cho các anh em đang ở phòng tử hình nếu tôi bị án "Tử" chuyển sang qua ở chung bên ấy. Nơi đó dành riêng cho những người mang bản án cao nhất, bản án cách ly vĩnh viễn với xã hội. Trước nhất là bị cách ly khỏi nhà giam chung, bị còng cả hai tay và hai chân suốt ngày đêm, họ đang đợi hoặc là được tha tội chết để xuống án chung thân hay là sẽ bị đem đi hành quyết.
Thế là 21 người chúng tôi có dịp trở lại phòng cảnh sát hình sự lần thứ ba. Khi phiên tòa khai mạc, tôi nhìn thấy tại phòng xử án có nhiều người vào ra liên tục, có nhiều đồng bào đến tham dự phiên tòa trong đó có thân nhân của 21 người chúng tôi cùng các Phật tử, xúc động nhất là có nhiều Phật tử lão thành tuổi gần 80 mươi, cũng lặn lội từ Ấp Cái Dầy Xã Châu Hưng đến đây. Mọi người nhìn thấy tôi với đôi còng trên tay họ sụt sùi nức nở, nhiều người xin phép anh công an đứng gác gởi biếu cho chúng tôi ít quà, tiền v.v…Khi tòa bắt đầu xét xử, trước nhất họ hỏi về lý lịch bản thân của từng bị cáo, sau tới phần đối chất, gạn hỏi, v.v… tôi luôn là người bị gọi sau cùng. Hôm ấy trước vành móng ngựa, tôi nhìn thẳng và xoay hướng đối diện các ông viện kiểm sát, ông chánh án và hội thẩm, v.v… Tôi hỏi vặn ông chánh án Ung Ngọc Uyển rằng: ” kể từ ngày 15-6-1976, có hai phái đoàn do ông Phạm Hùng là bí thư Đảng bộ Miền Nam, đại diện MTDTGPMN và chính phủ cách mạng lâm thời CHMNVN, còn ông Trường Chinh là đại diện cho Miền Bắc Nước VNDCCH. Hai bên đã tổ chức một cuộc hiệp thương chính trị, để thống nhất tổ quốc, thống nhất hai miền Nam Bắc. Kể từ ngày này chính phủ CMLTCHMNVN và nước VNDCCH đã hợp nhất trở thành nước CHXHCNVN, có chung quốc kỳ, quốc huy, huy hiệu, quốc ca.v.v… Và lá cờ Mặt trận DTGPMNVN đã bị khai tử. Thế thì tại sao quyết định khởi tố tôi lại ghi sắc luật 03 ký ngày 10-111967 của chính phủ CMLTCHMNVN tức luật trong thời kỳ chiến tranh. Như vậy, Hội đồng xử án hôm nay xin cho biết quý vị ngồi đây là đại diện cho ai? Đại diện cho Chính phủ CMLTMNVN hay đại diện cho nước CHXHCNVN?”
Lúc ấy ông chánh án Ung Ngọc Uyển, một tay trí thức thời Pháp, em ruột của ông Ung Văn Khiêm, nguyên Bộ trưởng bộ ngoại giao nước VNDCCH, cả hai anh em đều du học tại Pháp về, ông Ung Ngọc Uyển cũng là một tay lý luận già dặn và lão luyện có nhiều năm trong nghiệp vụ xử án, vội vàng lanh trí giải thích rằng: “ Tất cả những điều bị can hỏi và trình bày rất đúng… cũng chính ngày 15-6-1976 tất cả các sắc luật của hai chính phủ CHMNVN và VNDCCH đã hệ thống hóa pháp luật trở thành bộ luật chung của nước CHXHCNVN. Sở dĩ trong giấy quyết định không ghi rõ vấn đề này là do sự hành văn sai sót của thư ký tòa, mà tòa án chúng tôi sẽ kiểm điểm lại sau”.
Trong phiên tòa này ông Ung Ngọc Uyển còn hỏi tôi: "Bị cáo Thích Thiện Minh có thấy việc làm của mình gây ra tác hại cho nhân dân hay không?”
Tôi trả lời: "Bất cứ tổ chức chính trị nào đấu tranh cũng đều dựa vào nhân dân, vì dân là gốc, dựa vào sức mạnh của nhân dân, cùng nhân dân đấu tranh để đem đến quyền lợi thiết thực và ấm no hạnh phúc thật sự cho nhân dân, mục đích của tôi cũng như thế. Nếu có điều gì lỡ gây ra tác hại cho nhân dân đi chăng, đó là việc ngoài ý muốn của tôi mà thôi!”.
Ung Ngọc Uyển hỏi tiếp: "Bị cáo có thấy việc làm của mình có tội với nhân dân hay không?”
Tôi biện minh rằng: “Thưa quý tòa, tôi thấy có lỗi với nhân dân! (lúc này cả hội đồng xử án gật đầu ra vẻ tâm đắc…) sở dĩ tôi có lỗi với nhân dân là vì việc làm của tôi thất bại quá sớm, cho nên dân khổ lại làm khổ thêm, dân đói lại làm đói thêm đó là vì trách nhiệm của mình chưa tròn với dân với nước, một trong tứ ân mà người con Phật phải đáp trả, chứ nếu thành công thì chắc chắn hôm nay tôi không đứng trước vành móng ngựa này đâu!”
Khi nghe tôi trả lời như thế, ông Ung Ngọc Uyển ra lệnh cúp micrô và ông ta dùng những lời mạt sát nặng nề, cho tôi là bọn ma vương tà giáo núp bóng đạo hại đời, phản bội tổ quốc. Kết quả qua hai ngày xét xử, toà thông báo dừng nghỉ 20 phút để nghị án (ói nghị án, chứ thực ra các ông Tòa vào phòng bên trong uống nước, vì họ đã định sẵn bản án rồi! Sở dĩ tôi biết được là gì chính mắt tôi trông thấy họ ngồi uống nước, hút thuốc trong lúc tôi giả vờ xin đi tiểu) sau 20 phút giải lao, ông Ung Ngọc Uyển Chủ tọa phiên tòa đã nhân danh luật pháp nước CHXHCNVN và tòa án tỉnh Minh Hải tuyên bố:
“Tòa án nhân dân tỉnh Minh Hải căn cứ vào điều… khoản A+B... của sắc luật 03 được ban hành ngày 10-11-năm 1967 của Chính phủ CMLTCHMNVN đã cứu xét và áp dụng hết chính sách đối xử với bị cáo Thích Thiện Minh và kết án chung thân”.
5. RA TÒA PHÚC THẨM
Sau khi ra tòa được vài tháng thì trại giam Cà Mau được lệnh di dời về trại giam Cây Gừa tại Ấp 5, xã Thạnh Bình, huyện Giá Rai, tỉnh Minh hải. Trại này giam giữ khoảng 1000 người tù cách trại giam 300 mét là trại cải tạo Cây Gừa. Trại này giam giữ trung bình 5-6 ngàn người có khi lên đến 10 ngàn người, nhất là thời kỳ tập trung cải tạo. Tên giám thị trưởng thường gọi là “Tám Y” cấp bậc trung tá, nơi đây đã từng giam giữ các tù nhân tập trung cải tạo, binh lính, hạ sĩ quan, sĩ quan và viên chức chính quyền chế độ cũ. Đông nhất là thời điểm người người ồ ạt kéo nhau đi vượt biên tìm tự do, tìm sự sống… trung bình mỗi ngày bắt vào trại vài trăm người, và mỗi ngày cũng có thể thả 5-7 chục người là việc bình thường, phần lớn là những trẻ em, người quá già yếu bệnh tật, phụ nữ có thai, v.v… Còn người khỏe mạnh cũng được thả nếu có tiền hay vàng lo lót, cho nên ông trưởng trại và Ban chỉ huy ai cũng giàu có kếch xù. Còn trại giam Cây gừa trưởng trại là Đại úy Võ Văn Tiến hai ông quan này nuốt tiền như hạm đói, bản chất nham hiểm, ác độc, tham lam vô cùng… Cây Gừa là cánh đồng lúa mênh mông bát ngát, hàng nghìn tù nhân kể từ sau 30-4-1975 đã bị áp giải đến đây, ngày đêm lao động khai phá gian nan, ra sức xây dựng từ buổi ban sơ cho đến khi được tươm tất, có nề nếp, có nơi ăn chốn ở tương đối thì đã có biết bao người bỏ xác, và bao mồ hôi xương máu của tù nhân đổ xuống mảnh đất dọa đày này! chung quanh có nhiều nấm mồ của tù nhân ngã xuống sau những lần phản đối đấu tranh trong tù đã bị công an trại giam bắn ngay tại chỗ.
Tôi còn nhớ chỉ sau ngày 30-4-1975 vài hôm, thì ông xã trưởng chính quyền cũ thường được gọi là (ông xã Điểm) ông xã này trước kia thường bắt nhiều việt cộng ban đêm bò ra gài mìn phá đường, phá lộ giựt sập cầu và rải truyền đơn, v.v… Đến khi Sài Gòn đổi chủ, việt cộng tiếp quản chính quyền thì ông xã Điểm bị đem xử tử tại xã. Trước khi xử bắn họ tập họp dân lại để kể tội ông, dân theo Việt cộng dùng cây, kẻ dùng đá, đòn gánh đánh đập túi bụi, đầu cổ ông bị giập nát, mình đầy máu me, máu tuôn chảy đầm đìa lênh láng mà họ còn không buông tha. Trong khi hai tay bị trói chặt, miệng nhét đầy giẻ và thêm một trái chanh rồi bịt miệng bằng một chiếc khăn đen, đã vậy mà hai ba người còn dùng mấy cục đá thật to chạy đến đập vào đầu ông xã Điểm một lần nữa, trước khi lôi kéo thân ông đến một gốc cây họ buộc thật chặt và bắn ba phát súng. Khi nạn nhân ngã quỵ tên trưởng toán đến bên xác nắm tóc lên và nả vào màng tang một viên đạn gọi là “ân huệ sau cùng” trước khi kéo xác lấp vào hố.
Xin quay lại từ khi tôi dời đến trại Cây Gừa hơn một tháng sau, tôi nhận được giấy quyết định phúc án của tòa phúc thẩm thành phố, ký tên là thẩm phán Hũn Vi Định. Thế là một lần nữa tôi có rất nhiều nghiệp duyên, tức lần thứ tư tôi quay lại nhà giam của phòng cảnh sát hình sự tỉnh, tôi tạm ở một đêm tại đây, đến sáng hôm sau phiên tòa phúc thẩm khai mạc. Đặc biệt lần này hội đồng xử án đều là người Miền Bắc, chỉ có ông Viện kiểm sát là người Miền Nam. Tất cả đều ăn vận những bộ vét tông đen rất oai vệ. Từ người ngồi ghế chánh án cho đến hội thẩm nhân dân đều có hàm răng đen khít rịt, không còn thấy kẽ hở. Tôi không giỏi về “Ma y hình tướng” hay “ Ma y thần tướng” nhưng nhìn thoáng sơ qua tôi biết đây là thứ thiệt rồi! Tôi sợ bị ảo giác làm hoa mắt hoặc do trí tưởng tượng quá mạnh có thể nhìn sai lệch chăng? Nên tôi cố chú tâm nhìn cho kỹ, tôi đoán các ông tuổi ước chừng 60 – 70 và tôi cũng được biết cách đây 70-80 năm, tục nhuộm răng đen còn duy trì ở miền Bắc. Nhưng nay, hầu như đã thay đổi hoàn toàn, nếu còn chăng chỉ một vài nơi nào đó của người dân tộc thiểu số ở miền núi phía Bắc, hoặc giả khi ngồi ghế quan tòa từ tòa án phúc thẩm trở lên hay giám đốc thẩm v.v…cần phải nhuộm răng đen để cho thấy cái “Uy Phong” của những tên đao phủ chăng?
Riêng tòa phúc thẩm này ngoài tôi, mẹ của tôi, một đứa em trai của tôi là Huỳnh Hữu Nhiều còn chung quanh vỏn vẹn chỉ có 4 tên công an áp giải và hội đồng xử án chỉ có 5 người gồm:
1/ Viện kiểm sát
2/ Hai hội thẩm nhân dân
3/ Chủ tọa phiên tòa ghế chánh án
4/ Một thư ký
Phiên tòa xét xử không thông báo gia đình bị can, gần như xử kín. Sở dĩ mẹ tôi biết được là nhờ đứa em chạy xe đạp (xe vua) tình cờ trông thấy.
Khi đứng trước vành móng ngựa ông chánh án hỏi tôi “Động cơ nào thúc đẩy anh tham gia chống lại nhà nước Việt Nam”.
Tôi trả lời rằng:
“Vì thấy đồng bào Việt Nam quá đau khổ, cuộc sống mất tự do, quyền con người không được tôn trọng, GHPGVNTN bị khủng bố, đe doạ, các tôn giáo có nguy cơ bị tiêu diệt. Bởi vì chủ nghĩa Mác Lê-Nin cho tôn giáo là nha phiến, thuốc phiện cần phải bài trừ, ngôi chùa tôi đang trụ trì bị chính quyền địa phương hăm dọa, cưỡng chiếm làm cơ quan nên tôi đứng lên đấu tranh đòi lại sự công bằng”.
Ông Chánh án trừng đôi mắt rồi phân tích, lên lớp đủ điều rất bài bản, ông ta nói:
“Nào là do hậu quả nặng nề của chiến tranh, của chính quyền Sài Gòn, của đế quốc Mỹ để lại... Nào là đất nước đang trong thời kỳ quá độ, cán bộ cơ sở trình độ còn hạn chế… Bị can không biết thông cảm cho hoàn cảnh của đất nước để góp phần xây dựng xứ sở mà còn lại nhen nhóm chống đối, âm mưu lật đổ chính quyền, luôn có tư tưởng phản động, là mơ tưởng hão huyền ôm chân đế quốc Mỹ và bọn sen đầm quốc tế hiếu chiến… Nào là hàng vạn ngụy quân ngụy quyền Sài Gòn, quân đội viễn chinh Mỹ có đủ các loại khí, vũ trang hiện đại, xe tăng, tàu chiến, máy bay, v.v… Mà họ còn phải cút chạy, còn đầu hàng vô điều kiện, thì những tổ chức chỉ nhen nhóm 5-3 mươi người bất mãn, mang tư tưởng căm thù chế độ, không có tấc thép trong tay thì làm được gì, chỉ là lấy trứng chọi đá và chỉ đưa mình vào miệng cọp mà thôi!”…
Tên chánh án giảng moral gần 20 phút, nhiều lần tôi đưa tay lên để có ý kiến, để phản biện nhưng ông ta từ chối hoặc né tránh sự đấu khẩu giữa hai bên. Cuối cùng phiên tòa kết luận, giữ nguyên y án chung thân đối với tôi và đề nghị tòa án nhân dân Minh Hải không được hủy bỏ các chứng cứ và hồ sơ vụ án của bị can, mà cần giữ lại vào kho lưu trữ. Đồng thời nghiêm khắc kiểm điểm tòa án nhân dân tỉnh Minh Hải ( tòa án sơ thẩm) vì xét xử vụ án của Thích Thiện Minh chưa được thích đáng. Nghe đến đây tôi biết các ông đao phủ răng đen này cũng muốn tặng cho tôi vài phát súng và một viên đạn ân huệ sau cùng lắm, bởi lời phát biểu của ông toàn là “đao to búa lớn”, sặc mùi hận thù giai cấp.
Phiên tòa vừa kết thúc, ngay sau đó hai tên công an chạy đến còng đôi tay tôi rồi áp giải lên xe, tôi chỉ kịp quay lại phía sau hàng ghế để nhìn mẹ, nhìn em trai. Tôi thấy mẹ tôi đang lấy khăn tay lau nước mắt … tóc mẹ tôi bạc trắng cả mái đầu, em trai tôi nước da sạm nắng, thân gầy ốm và cao lêu nghêu vì hàng ngày em phải đạp xe lôi vua bằng chính đôi chân của mình, phải đổ thật nhiều mồ hôi mới có đồng tiền đem về mua gạo. Ngoài ra em còn dành dụm chút ít đưa cho mẹ đến thăm nuôi tôi. Mỗi khi tôi nhận tiền thăm nuôi mẹ tôi gởi cho, tôi biết đây là máu, mồ hôi của em tôi đấy !
Sau khi xử phúc thẩm xong trên đường áp giải tôi về trại giam Cây Gừa xe dừng lại tại chợ “Hộ Phòng” đây là một thị trấn sầm uất, có khá nhiều phố xá, trước kia quang cảnh thật nhộn nhịp, người buôn, kẻ bán vào ra tấp nập, xe cộ đông đúc. Nhưng bây giờ sau khi cộng sản chiếm chính quyền mới 6 năm thôi mà quang cảnh tiêu điều, hàng hóa it ỏi, người đi thưa thớt trông rất buồn tẻ. Vài tên công an xuống xe rẽ đám đông của tốp học trò đi ngang qua, họ tấp vào phố chợ; trên xe chỉ còn lại vài tên đứng canh giữ tôi. Bỗng từ xa xa, quý đồng bào cô bác đi chợ nhìn lên trên xe trông thấy đôi tay tôi đang bị còng, chung quanh có công an đứng gác. Mọi người biết là tù nhân thôi! chứ chẳng biết tôi là ai và mang tội gì cả. Họ liền khều tay rủ nhau kẻ mua quà bánh, ngườI mua thuốc lá, dầu gió, v.v…cùng nhau mon men đến gần xe để quăng lên cho tôi. Mấy tên công an la hét xua tay và nói: “Mấy bà không được đến gần xe, không được cho quà phạm nhân! Mấy bà biết anh ta phạm tội gì không? Tội phản động, âm mưu lật đổ chính quyền đấy! mới vừa xử án chung thân đấy !”
Trong đám đông có một bà trả lời: “Tội gì mặc kệ chúng tôi không cần biết, miễn thấy kẻ tù tội, hoạn nạn là tụi tôi cho thôi!” Có một cụ bà tuổi trên 60 đi bên đứa cháu gái, bà lên tiếng “Tụi mầy nói chú ấy là tội âm mưu lật đổ chính quyền hả! Lật đổ chính quyền là đúng, là phải rồi, chứ tụi mày đã làm nhân dân khổ quá nhiều rồi, mà để cho tụi mày cầm quyền hoài, thì chắc nhân dân từ từ phải chết lần chết mòn hết, chứ không còn ai sống nổi đâu!” Lúc ấy hai tên công an vội vã đóng bửng xe và kéo tấm bạt bằng cao su phủ xuống. Ngồi trên xe tôi suy nghĩ lại mấy lời nói của quí cô bác vừa qua, tôi có thể quyết đoán được lòng dân hiện tại đang mong muốn những gì rồi!
6. TRẠI CẢI TẠO CÂY GỪA…
Sau khi ra tòa phúc thẩm giữ y án chung thân. Một hôm ông Lâm Quang Dũng người kiểm tra kết cung lần cuối trước khi khởi tố vụ án, người mà tôi cho là ông “Thiện” đã đến tận phòng tôi, gặp tôi ông ta nói: “Anh Ba Minh! anh có muốn chuyển sang trại cải tạo Cây Gừa để đi lao động cho có sương, có nắng không? Chứ ở đây thiếu ánh nắng vì tối ngày chỉ ở trong phòng hoài, anh sẽ bị gò bó tù túng... dễ sinh bệnh lắm!”
Tôi trả lời: “Cảm ơn ông Ban là nhà tu ở đâu cũng được, vì nơi nào có người tin Phật thì nơi ấy cũng cần có hình bóng của thầy tu và ngược lại nơi nào có hình bóng của thầy tu thì nơi ấy cũng có người tin Phật. Tuy nhiên muốn được thuận duyên ở trong nhà tù thì cũng không dễ dàng gì! thôi thì tùy ông Ban vậy!”
Ông ta nói tiếp: “Ngày mai tôi sẽ đề xuất đưa một số người thành án chuyển sang bên ấy để đi lao động, anh hãy chuẩn bị thu xếp đồ đạc, tư trang đi”.
Sau đó ông ta từ giã ra cửa và còn ngoái lại miệng mĩm cười nói: “Cố gắng giữ sức khỏe nhé anh Ba Minh”. Hai ngày sau tôi cùng một số anh em đồng tù chuyển sang trại cải tạo Cây Gừa. Đến đây họ khám xét, lục soát rất kỹ lưỡng tư trang và thân thể, họ tịch thu khá nhiều đồ đạc, rồi đưa chúng tôi vào nhốt ở một khu giam riêng, cách ly hẳn tất cả mọi người trong trại. Khi tôi đến đây thì gặp lại một số người quen đã từng ở chung tại các trại giam Bạc Liêu, Cà Mau, họ cũng đều là tội chính trị cả. Khu vực giam riêng này rất kiên cố và kiểm soát chặt chẽ muốn vào tới phòng giam phải qua ba bức tường cao, bên trên đổ nóc bằng có cả một tiểu đội công an ăn ở, sinh hoạt, canh giác ngày đêm. Phía dưới có hai dãy, mỗi dãy 6 phòng mặt hậu liền nhau cùng chung một vách, dãy phòng phía trước giam giữ tù chính trị trong nước, dãy phía sau giam giữ tù chính trị hải ngoại, gồm lực lượng quân sự và bán quân sự, thuộc tổ chức của hai ông Lê Quốc Túy và Mai Văn Hạnh. Sở dĩ tổ chức này bị bắt là do cộng sản VN đưa công an đặc tình (tình báo đặc biệt) cài vào đi vượt biển, để sang Thái Lan xâm nhập vào các tổ chức chính trị hoạt động phản gián. Theo lời nhiều người kể tên công an được cài cắm phá vỡ tổ chức này tên Thậm còn gọi là Tám Thậm cấp bậc trung úy là công an trại cải tạo Cây gừa. Hiện nay anh ta mang quân hàm cấp bậc Đại tá, nguyên là giám đốc công an tỉnh Cà Mau. Đại để những lời thiên hạ đồn đại bàn tán về tên Tám Thậm như sau:
Tám Thậm là một trung úy có trình độ học vấn thấp, tánh tình ngang bướng, kênh kiệu, ăn nói hằn học, vẻ mặt vênh váo, trông rất bậm trợn với hàm râu quai nón. Lúc đang công tác tại trại cải tạo Cây Gừa, tên này thường bị nội bộ trại giam kiểm điểm liên tục vì thường xuyên vi phạm kỷ luật nội bộ và có nhiều khuyết điểm về mặt đạo đức, công tác. Nhiều lúc anh ta biểu hiện sự bất mãn, nên thường có những mối quan hệ tiếp xúc rất gần gũi với các sĩ quan của chế độ cũ đang học tập cải tạo.
Ở trại Cây Gừa những người tập trung cải tạo bị cấm uống rượu, nhưng Tám Thậm thường xuyên mua rượu và tổ chức những cuộc nhậu nhẹt say sưa với các sĩ quan này. Thực ra đây chỉ là màn dàn dựng để anh em tù cải tạo của chế độ cũ tin tưởng Tám Thậm để hắn xâm nhập mà thôi. Vì thế từ chỗ quen biết, đi dần đến chỗ thân tình. Tám Thậm đã cùng với các sĩ quan nầy lấy tàu của những người vượt biên bị bắt neo đậu tại trại, tổ chức vượt biên sang Thái.
Lúc đầu, anh ta có ý định giúp các sĩ quan trốn trại ra đi theo sự sắp xếp của lãnh đạo đảng ủy. Thế nhưng trong lòng anh ta cũng hi vọng rằng các sĩ quan sẽ giới thiệu, công lao giúp đỡ của anh với Cao ủy Tỵ nạn của Liên Hiệp Quốc hy vọng mình sẽ được phỏng vấn sang định cư ở nước thứ ba. Nhưng khi đến Thái thời gian hơn 2 năm, mọi người cùng chung chuyến hải trình với anh đều lần lượt được phỏng vấn ra đi định cư nước khác, còn anh chỉ biết chờ đợi… anh cảm thấy bị hụt hẫng, thất vọng. Lý lịch ba đời là cộng sản có truyền thống cách mạng của gia đình, Cao ủy Tỵ nạn khó cứu xét, thế là ước mơ của anh đã vượt khỏi tầm tay và giấc mộng đẹp của anh cũng không thành sự thật. Vì vậy khi nghe được lời kêu gọi tham gia vào tổ chức chính trị của Lê Quốc Túy và Mai Văn Hạnh anh ta sốt sắng ghi tên tình nguyện tham gia tổ chức. Anh được tổ chức nầy cho học tập, huấn luyện và tài trợ đủ mọi mặt… đến khi có chiến dịch “Chuyển lửa về quê nhà” anh cũng được lệnh vận chuyển, vũ khí, tiền bạc, quân trang quân dụng của tổ chức này về mật cứ ở trong nội địa Việt Nam, anh là người được phân công cầm cờ đi tiên phuông hướng đạo. Khi tàu cập bến, anh được giao nhiệm vụ bò lên bờ trước để do thám tình hình, nên thay vì do thám anh ta đã thông báo cho cơ quan an ninh và chánh quyền cơ sở nơi tàu cập bến.
Công an, quân đội và du kích địa phương ồ ạt đến bao vây, chặn bắt và tịch thu tất cả vũ khí, máy móc, điện đài và một số tiền giả khổng lồ. Kể từ đó anh được xem như là một vị anh hùng vì đã lập được đại công, anh bắt đầu ba hoa, khoe khoang thành tích và vỗ ngực tự hào, huênh hoang kiêu ngạo là tự chính anh đã tìm mọi cách để sang Thái xâm nhập vào các tổ chức phá vỡ những âm mưu lật đổ chế độ từ hải ngoại. Nhờ ba tấc lưỡi khéo nói anh tỏ ra mình là người có chí lớn, vì đại cuộc, vì quyền lợi sống còn của nhân dân, của Đảng, báo chí lúc ấy cũng hết lời tâng bốc ca ngợi cho là nhờ sự giáo dục và rèn luyện của Đảng nên anh Tám Thậm đã làm nên một chiến công hiển hách đem về vinh quang cho đất nước. Thỉnh thoảng trong các tiệc rượu anh còn ví mình đã noi gương Bác Hồ một thân một mình bôn ba xuất dương tìm đường cứu nước. Từ đó anh được phong quan tiến chức thật nhanh. Anh đã lừa được mọi người và thành công chỉ là nhờ “Chủ nghĩa cơ hội” chứ không phải là “chủ nghĩa xã hội”. Lúc nào anh cũng hãnh diện với cấp bậc được phong thưởng về tài trí của mình nên luôn tỏ vẻ hống hách kiêu căng và xem thường mọi người, của một ông công thần. Nhận xét trên đây của một số người từng là đồng chí, từng công tác chung với anh thuật lại, chứ anh không phải là B2 gì cả, nhờ có công nên anh được xem xét đề bạt rút về ngành này. Bởi tài năng của anh rất là bình thường, trình độ văn hóa rất tồi… đảng cộng sản không dùng đại loại những tên như vậy để làm công tác tình báo quốc tế bao giờ. Đôi khi, người đời cũng thường thốt lên "Hay cũng không bằng hên mà!”.
Nảy giờ mãi mê đi khá xa xin quay về khu kỷ luật giam riêng nơi tôi ở, như tôi đã trình bày, trên nóc bằng nhà giam riêng có hơn một tiểu đội công an trực tiếp ăn ngủ canh gác ngày đêm. Nhất cử nhất động của chúng tôi đều có sự kiểm soát của họ, trung bình 2-3 tuần dãy phòng phía trước sẽ được mở cửa cho tù nhân ra ngoài sân tắm nắng một lần vào buổi sáng, riêng phòng tôi luôn bị trù dập nên ít được tắm nắng như các phòng khác… còn dãy phòng phía sau của tổ chức hải ngoại họ được hưởng tiêu chuẩn chế độ, vật dụng cần thiết được cấp phát tạm tương đối, tắm nắng mỗi ngày hai lần sáng, chiều. Người tù từ hải ngoại về bị bắt trong thời gian làm việc để điều tra có chính sách ưu đãi hơn vì nhiều lý do. Thỉnh thoảng các anh em thông tin cho chúng tôi biết những tin tức từ hải ngoại và ngược lại chúng tôi cũng thông báo cho họ mọi hiện tình của đất nước. Trong số những anh em này có một vài người đã biết tôi cách đây khá lâu, nhưng tôi đã quên bẵng, sau khi được nhắc lại thì ra họ một thời cũng đã từng ở nơi này, lúc bị bắt đi tập trung cải tạo, chính quyền mượn trường học Cây Gừa làm nơi giam giữ chứ lúc ấy chưa thành lập nhà tù như hiện nay.
Theo cộng sản vô thần bản tánh
Nên Phật trời thần thánh chẳng tin
Lại dùng lời chia rẽ miệt khinh
Phá Thánh Thất, Chùa, Đình, ngôi Tam Bảo
Phá Nhà Thờ bắt Cha, Thầy đi cải tạo
Chứng tỏ rằng việc đạo có âm mưu
Dùng trường học làm khám để nhốt tù
Bao tội lỗi oán thù cao như núi...!
Câu chuyện họ gợi nhắc lại có liên quan đến tôi như sau: Đó là thời gian 2-3 năm, trước khi tôi bị bắt, tôi được Hòa Thượng Thích Trí Đức chánh đại diện GHPGVNTN tỉnh Bạc Liêu phân công tôi trực tiếp đến chùa Từ Quang, Ấp Cây Gừa, xã Thạnh Bình, huyện Giá Rai, tỉnh Minh Hải để mở phòng thuốc Nam, châm cứu từ thiện. Ngôi chùa này chỉ cách nơi tập trung cải tạo tức trường học Cây Gừa khoảng hơn 1 km. Hằng ngày bộ đội của 2 tiểu đoàn U Minh 1 và 2 thuộc tỉnh đội Minh Hải đến trại cải tạo lãnh tù nhân đi lao động để xây dựng doanh trại cho 2 tiểu đoàn. Tù nhân xếp hàng một, đi kéo dài gần nửa cây số, hai bên đường đều có bộ đội canh giữ nghiêm ngặt. Cấm không được quan hệ hay tiếp xúc bất cứ người dân nào trên đường đi. Lúc họ đi ngang chùa tôi trông thấy hầu hết là những người đứng tuổi, nước da đen nám, thân thể gầy ốm, gương mặt hốc hác có người đi lảo đảo vì đang bị bệnh, nhiều người mang dép khác quai, đa số quần áo đều bị rách nát; khâu vá nhiều mảnh vải khác màu, hoặc lấy dây buộc tạm cốt sao cho lành lặn, ấm kín thân thể để chịu đựng với mưa nắng hàng ngày. Tôi tìm hiểu thì biết phần đông là gia đình ít đến thăm nuôi, ăn uống thiếu thốn không đủ chất dinh dưỡng, bệnh đau không đủ thuốc, nước tắm cũng thiếu, hằng ngày không có đủ nước sạch để uống. Nhiều người bị bệnh sốt rét, phù thũng, bại liệt đang nằm quằn quại, rên xiết dưới nền nhà, không có giường, chiếu, chỉ có đồng tù là nguồn động viên an ủi, nhưng đa phần ai cũng khổ cả. Thấy tình trạng như thế tôi bèn tìm một Phật tử có quen biết với ông Tổng trực ban cấp bậc Thượng úy tên Ba Đô ( còn gọi là Ba Giò ) để ngỏ ý: “ tại chùa Từ Quang có hốt thuốc Nam, châm cứu. Nếu anh em cải tạo nào có bệnh xin quý vị vui lòng cho phép họ đến chùa tôi sẽ giúp điều trị bệnh miễn phí”.
Mấy ngày sau ông Thượng úy Ba Đô trả lời rằng: “Sau khi tham khảo ý kiến của lãnh đạo, nhà trại sẵn sàng cho phép cải tạo viên có bệnh được đến chùa điều trị với điều kiện nhà chùa phải làm đơn gởi đến Ban lãnh đạo trại cải tạo Cây Gừa tỉnh Minh Hải, nên nói rõ nội dung”. Thế là tôi phải làm đơn “Xin phép được làm phước” sau đó khoảng vài hôm, mọi người cải tạo được đến chùa trị bệnh, trong số ấy có nhiều sắc lính khác nhau như: Cảnh sát đặc biệt, an ninh quân đội, trưởng đồn, quân cảnh, biệt kích Mỹ, v.v… có đủ cả sĩ quan lẫn hạ sĩ quan… Mỗi ngày có khoảng 5-10 người đến chùa trị bệnh, khi hốt thuốc xong ra về sư cô Thích Nữ Huệ Giác Trụ trì chùa Từ Quang còn biếu cho mỗi người một bọc tương hột, bánh dừa, trái cây. nón lá hoặc cao su che mưa .v.v…Thậm chí thêm một cục thuốc gò hay thuốc tấp cho anh em đỡ buồn. Điều an ủi nhất đối với mọi người là mỗi tuần tôi về Bạc Liêu tìm địa chỉ gia đình của họ thông báo để khi mọi người đến trị bệnh sẽ gặp người thân của mình hàn huyên tâm sự thoải mái. Nhưng đây chỉ là việc giúp đỡ kín đáo thôi, chứ chẳng dám công khai, nếu công an biết được là bị cấm ngay và nhà chùa còn bị tai họa nữa!… Có người sau khi mãn học tập cải tạo về rỗi rãnh đưa gia đình vợ, con đến chùa lễ Phật, thăm viếng và nói lời cảm ơn. Không những họ đến chùa Từ Quang nơi tôi hốt thuốc để cảm ơn mà còn đến cả ngôi chùa Vĩnh Bình, ngụ tại ấp Cái Dầy, xã Châu Hưng, huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu, nơi tôi làm tọa chủ nữa !
Cho đến giờ phút này tại gia đình, lúc tôi đang ngồi ghi lại hồi ký sau 26 năm tù, tôi vô cùng bất ngờ và thật xúc động khi đón nhận được quà biếu, tịnh tài từ hải ngoại gửi về ít nhiều để giúp tôi điều trị bệnh. Trong đó có những người tôi chưa quen và có những người đã quen biết tôi, có những người đồng hương tại Bạc Liêu, hiện định cư tại Hoa Kỳ, họ biên thư về nhắc lại chuyện cũ ngày xưa… Lúc họ đang bị tập trung cải tạo tại trường học Cây Gừa. Sau đó có người đi theo diện “HO”, có người vượt biên sang nước khác…theo tôi nghĩ, với qui luật nhân quả và báo ứng rất nhiệm màu, rất công bằng, biết đâu cũng chính nhờ những việc làm lợi tha nho nhỏ này mà suốt 26 năm tù mỗi khi tôi đối diện trước cơn hoạn nạn hay quẫn bách khó khăn, thì lúc ấy tôi lại được quới nhơn tận tình giúp đỡ như gặp được Phúc tinh, như có sự ứng hiện của các vị thiên thần, thiên sứ của các đấng thiêng liêng giúp tôi thoát qua được cảnh khốn khổ nguy nàn. Tôi tuyệt đối tin tưởng sự báo ứng của luật nhân quả. Cũng như tôi đã trình bày trên, sự giúp đỡ của Hòa Thượng Thích Huyền Quang, Đức Đệ Tứ Tăng Thống,Hòa Thượng Thích Quảng Độ,Viện trưởng viện Hóa Đạo GHPGVNTN, quý Hòa Thượng, Thượng Tọa, Đại Đức, Hội ân Xá Quốc tế ở Luân Đôn, quý chư tôn pháp quyến và những nhà hảo tâm, những mạnh thường quân, những người đồng hương Bạc Liêu trong đó có những anh chị thân nhân con của người cô thứ Năm, có người gởi trực tiếp, có người gián tiếp thông qua đường bưu điện bảo đảm hoặc Cô Đoan Trang giám đốc của đài phát thanh Quê Hương hay ông Võ Văn Ái giám đốc phòng thông tin Phật giáo quốc tế hoặc GHPGVNTN tại các Châu lục hải ngoại.v.v…
Tôi xin ghi nhận những nghĩa cử cao đẹp này là những tấm lòng vàng và xem đây là những dấu ấn mang nhiều kỷ niệm đáng nhớ trong suốt cuộc đời hành đạo của mình. Sau 26 năm tù đày vừa được trả tự do, trong lúc thân thể bệnh hoạn, gia đình đang khó khăn, mái chùa cũng không còn, mọi việc khá khó khăn trong buổi ban đầu để hội nhập với xã hội có quá nhiều mới mẻ tưởng chừng như khá xa lạ. Sự hỗ trợ của quý ân nhân là động lực khích lệ tinh thần, là niềm an ủi lớn lao không có bút mực nào tả hết. Đây chính là nguồn động viên cổ vũ, mạnh mẽ về tinh thần để làm tăng thêm nghị lực của những ai đã, đang và sẽ dấn thân đấu tranh vì dân tộc và đạo pháp. Tôi hằng cầu nguyện cho những bậc ân nhân luôn được vạn sự bình an, muôn điều lợi lạc.
A. Nghiệp từ kiếp trước (Túc trái), tiền hung hậu kiết:
Xin nói về khu vực giam riêng nơi chúng tôi đang bị cách ly tại trại cải tạo Cây Gừa. Bản thân tôi luôn nhớ mãi một câu chuyện như còn in trong trí như sau:
Trong số một tiểu đội trực tiếp canh gác ngày đêm trên nóc bằng phòng giam riêng nầy có một anh cán bộ còn rất trẻ tuổi, khoảng 19 – 20 trình độ văn hóa lớp 8-9 tên là “Tài”. Anh ta rất ác cảm với cá nhân tôi, có lẽ từ kiếp trước, tôi với anh ta có những thành kiến hay gieo những oan nghiệp gì cho nhau nên kiếp này còn gặp lại! Tôi trông nét mặt, cung cách, cử chỉ dáng đi đứng của anh ta là tôi không thể có cảm tình được rồi, còn anh ta cũng vậy! Anh tâm sự với vài bạn đồng tù chính trị trong các phòng bên cạnh như anh Thái Kim Lái, Đặng Văn Hai, Huỳnh Ngọc Châu, v..v… là anh không cần trông thấy tôi mà chỉ nghe tiếng nói của tôi thì anh đã phát ghét rồi, mặc dầu tôi chẳng có làm gì đụng chạm đến anh ta, tôi là tù nhân còn anh là tên cai tù thế thôi. Bởi mỗi khi nhìn thấy dáng đi hống hách kênh kiệu, nghe lời nói láu lỉnh, thô thiển của anh ta, tôi cho anh ta là thuộc dạng tinh nghịch nên tôi chẳng muốn nhìn lâu. Anh ta cũng biết tôi chẳng ưa thích gì anh, từ đó mỗi khi gia đình tôi gởi quà thăm, hôm nào đúng phiên anh ta trực, anh ta không mở cửa phòng cho đem vào mà để giỏ thức ăn phơi nắng, phơi sương ngày đêm cho đến khi hư thối! còn các phòng khác thì anh ta mở cửa bình thường, cũng như gia đình tôi có cho tiền gởi lưu ký căng tin, anh cũng không hề thông báo để tôi biết mà định liệu chi tiêu. Tôi cũng mặc nhiên, nhiều lúc suy nghĩ cũng cảm thấy bực tức, nhưng sau đó tôi cho là nghiệp cảm mà thôi!
Tài có một người anh rể cấp bậc trung úy là cán bộ an ninh điều tra, ác ôn có tiếng cuả trại giam này. Hai vợ chồng vị trung úy này ở nhà của cơ quan do trại giam cấp. Có lần vợ của viên trung úy tức chị ruột của anh ta, sau khi sinh đứa bé đầu lòng thì bị bệnh sưng nhũ hoa (sưng vú) căng phồng thật to màu đỏ sẫm, đau nhức vô cùng. Lúc bấy giờ thuốc Tây khan hiếm, bệnh viện lại xa…hai vợ chồng viên trung úy nghe dân chúng quanh vùng giới thiệu rằng ” Ở chùa Từ Quang Cây gừa cách đây chừng 2 cây số có một ông thầy hốt thuốc nam, châm cứu hay lắm! Hai anh chị nên đến đó để nhờ ông thầy chữa trị cho” mấy hôm sau hai vợ chồng vị trung úy đến chùa Từ Quang. Sau khi hỏi thăm và tiếp xúc biết rõ hai vợ chồng vị trung úy đang công tác tại trại cải tạo Cây Gừa, Bà Ni sư trưởng Thích Nữ Huệ Giác trụ trì chùa nói rằng: “Ông thầy Thích Thiện Minh bị ở tù ba năm rồi, hiện đang ở trong trại của ông đấy! Hãy vào nhờ ông thầy ấy giúp cho”. Khi hai vợ chồng về đến trại giam tìm tên tôi biết được tôi đang ở phòng biệt giam nơi người em vợ tức cán bộ trẻ rắc rối tên Tài đang canh giữ. Vị trung úy mới bảo với Tài nhờ tôi giúp trị bệnh dùm cho chị ruột của anh ta. Sáng hôm sau, bỗng nhiên tên công an Tài từ ngoài đi xăm xăm thẳng vào mở cửa phòng biệt giam của tôi và nói: “Hôm nay trời nắng tốt quá! Các anh ở trong phòng hãy ra sân tắm nắng đi!” Rồi anh ta bỏ đi lên trên nóc bằng, anh ta đi tới đi lui thỉnh thoảng ngó liếc xuống tỏ vẻ như muốn nói điều gì. Tôi và các anh em trong phòng tất cả 5 người ra sân tắm nắng mọi người ngó nhìn nhau, đều suy nghĩ ! hôm nay tên Tài sao cảm thấy lạ quá,! tại sao thằng ranh con này hôm nay tốt thế! Đặc biệt là chỉ mở cửa phòng tôi mà không mở cửa cho các phòng kề bên…tôi đoán chừng anh ta muốn nói gì đây!
Thật đúng y như rằng, mấy phút sau anh cán bộ nhãi con này đến đứng ngay trên nóc phòng tôi nhìn xuống trông dáng hiền lành, miệng mỉm cười nhưng với vẻ hơi ngượng và nói: "Ông Ba Minh, cho tôi xin hỏi một tí, bộ trước kia khi còn ở ngoài đời, chưa bị tù ông có hốt thuốc nam, châm cứu ở chùa gần đây hả?”
Tôi trả lời: “Trước kia tôi không phải ở ngoài đời gì cả mà ở chùa, tôi có hốt thuốc Nam, châm cứu ông hỏi để làm gì bộ muốn điều tra lý lịch hả? Muốn làm việc với tôi thì phải có nơi có chỗ?”
Anh cán bộ Tài miệng mỉm cười: “Tôi hỏi để nhờ ông thầy giúp đỡ chứ không có điều tra lý lịch gì đâu, sao ông khó quá vậy!”
Tôi liền hỏi: “Ông muốn nhờ tôi giúp đỡ gì?”
Anh cán bộ Tài thuật lại đầu đuôi về việc vợ chồng vị trung úy có đến chùa để nhờ trị bệnh… và cuối cùng anh nhờ tôi có cách gì giúp dùm điều trị bệnh cho chị ruột của anh ta. Khi hỏi rõ chứng bệnh tôi bảo anh hãy mang lại 1 muỗng canh dầu dừa tôi sẽ làm thuốc trong vòng 5 phút, nhớ thuốc này phết bằng lông gà, phết ngay chỗ sưng đau không nên cho bệnh nhân biết là thuốc gì! Sau khi phết thuốc chỉ nữa giờ sau thì đã giảm sưng, giảm màu đỏ và bớt căng phồng gần như hết đau nhức hoàn toàn… cũng chiều hôm ấy anh cán bộ rắc rối này đi xuống mở cửa phòng tôi nói lời cám ơn và báo tin rằng bệnh của chị anh ta đã bớt thật nhiều rồi! Anh ta mời tôi một gói thuốc Capstan đầu lọc, tôi không biết hút thuốc nhưng cũng nhận để mời các anh em ở chung phòng. Kể từ đó anh cán bộ này bắt đầu vui vẻ, thái độ hòa nhã! nói năng lịch sự, cung cách đàng hoàng không còn có cử chỉ cá nhân với tôi như trước nữa! dần dần tôi nhìn anh ta có cảm tình và dễ mến hơn…
B. Âm mưu vượt ngục tại trại cải tạo Cây Gừa bị thất bại
Tôi ở phòng biệt giam này gần 6 tháng, trong phòng gồm có 5 người, ba người mang tội chính trị là Quách Văn Hoạch, án tử hình được tha tội chết, Trịnh Thanh Sơn, án 20 năm và tôi Thích Thiện Minh, án chung thân. Ngoài ra còn 2 thường phạm khác là quân phạm.là Nguyễn Văn Tấn trung úy đặc công được chuyển về làm xã đội trưởng xã Vĩnh Mỹ huyện Vĩnh Lợi Bạc Liêu, án chung thân và Đổ Thành Công ngành kiểm lâm,án chung thân. Mặc dầu tội danh có khác nhau nhưng tất cả đều cùng chung cảnh ngộ, nên rất đồng cảm, chia sẻ cho nhau những nỗi vui buồn, an ủi giúp đỡ nhau trong lúc bệnh hoạn khó khăn. Có thể nói san sẻ cho nhau từng hớp nước uống, từng bát cơm, từng chiếc khăn lau mặt, từng viên thuốc cho đến vật nhỏ nhất như cây kim, cọng chỉ, v.v… Nói tóm lại, từ vật chất lẫn tinh thần. Từ đó mọi người thấu hiểu tâm tư của nhau là “những người tù đều có chung một khát vọng đó là sự tự do”. Chúng tôi thỉnh thoảng nói đùa với nhau mà gần như nói thật rằng: “Nếu ở tù dưới chế độ CS, bị mang án 20 năm hoặc chung thân mà ngồi chờ cho tới ngày mãn án, thì cuộc đời chúng ta sẽ đen như mõm chó mực và tương lai kể như bí ngõ” chẳng lẽ mình ngồi im mà chấp nhận số phận “Mạt vận cùng đồ” chăng?
Từ một nhận thức chung đó mà 5 người đều nhất loạt đồng lòng quyết tâm đào tường vượt ngục. Năm người sẽ cùng đồng hội, đồng thuyền cùng nhau sống chết để giải quyết những âu lo, buồn chán đang chất chứa trong lòng…Sau khi bàn tính phân công nhau, tôi được anh em giao trách nhiệm, ấn định thời gian, xem và chọn ngày giờ hành động để tiến hành càng sớm càng tốt. Kinh nghiệm nhà tù cho thấy mỗi khi đã bàn bạc kế hoạch thì không thể chần chờ trì hoãn được, bởi vì trì hoãn chắc chắn sẽ gặp bất lợi theo kinh nghiệm xưa nay ở trong tù, vì đây là việc nguy hiểm và hệ trọng liên quan đến từng cá nhân. Anh Nguyễn Văn Tấn là một chiến sĩ đặc công có nhiều kinh nghiệm trong việc đào tường đào hầm, v.v… Đó là nghiệp vụ chuyên môn, nên anh chịu trách nhiệm đào đất và hướng dẫn mọi người tập dượt cách thức leo, bò, trườn, nằm, ngồi, chạy, v.v… Phải ngụy trang ra sao? mặc quần áo màu gì? vào thời gian nào? đêm trăng sáng hay tối trời?… bò trên lá cây khô phải làm sao để đừng nghe tiếng kêu sột soạt, bò trên tôn thiết ( tole) thì cách nào để không bị phát hiện, lội nước như thế nào hoặc ngoi đầu lên từ dưới nước phải làm sao để không nghe tiếng nước rơi lõm bõm. Lội xuống bãi sình thì động tác nào để đối phương không phát hiện là dấu chân của người mà tưởng là dấu chân của trâu, bò, v.v…nhằm để đánh lạc hướng hay phi tang dấu vết. Tôi và các anh em còn lại ôm đất đem lên, tôi vừa lo tiếp tế lương thực, nước uống. Khi công việc tiến hành, anh Tấn là người ra tay đầu tiên và tích cực nhất. Anh đào bằng một chiếc nắp soong gang loại nhỏ, đường kính khoảng 15cm. Khi vào thực tế mới phát hiện thêm nhiều trở ngại khó khăn, thật vất vả, mệt nhọc mới cưa đứt những cây cừ tràm rất to, nằm sâu dưới móng nền đà kiềng, vả lại càng đào xuống sâu, càng thiếu không khí nên dễ bị ngộp thở, bị ngất, một phần vì đào ban đêm nên thiếu ánh sáng, đèn cầy hay đèn dầu phộng đốt đem xuống bị tắt ngay, đất đào đem lên quá nhiều, để ngập cả chỗ nằm, số đất lên đến khoảng vài khối. Để chui ra được chiếc hầm phải đào chiều dài khoảng 6-7 m trở lên.
Tôi đã dự định ngày giờ hành động và ấn định thời gian, trời sẽ đổ mưa to vào giờ tý tức từ 11 đến 1 giờ đêm, hoàn toàn chính xác 100% nhưng tôi không thể lường trước những hoàn cảnh hay trở ngại khác hoặc khả năng người đào, nên đã đúng giờ lên đường mà việc thực hiện đào hầm chưa xong. Bởi vì, ở dưới nền đất còn có quá nhiều loại miểng chai, kim loại và dây chì gai cùng các vật bén nhọn khác rất nguy hiểm cho tay chân người đào. Mấy lần anh Tấn bị ngạt thở phải kéo lên để hô hấp nhân tạo, anh bị mất sức quá nhiều vì cật lực trong công việc, giữa lúc ấy bất ngờ tôi lại bị bệnh kiết nhiệt phải đi tiêu liên tục thật phiền toái vô cùng. Bên cạnh đó em Đỗ Thành Công có vong linh của người mẹ đã chết từ lâu bỗng nhiên bà ứng nhập vào xác của Công mách bảo “Nên lấp đất lại đi đừng trốn, nếu trốn sẽ bị tai nạn” nhưng mọi việc đang dỡ chừng nên chúng tôi đành cố gắng tiếp tục. Bao nhiêu việc đang dồn dập diễn ra trong mấy ngày qua, ai nấy đều đuối sức. Bất thình lình trong lúc 5 anh em đang ngồi nghỉ mệt uống nước, đột nhiên anh Trịnh Thanh Sơn bất thần la hoảng lên: "Kìa! Kìa! Nó đến kìa! Ôi ghê quá! Ghê quá!” Rồi anh té ngất xỉu làm cho tất cả mọi người đều giật mình. Khi anh Sơn bình tỉnh trở lại chúng tôi hỏi chuyện gì thế?
Anh Sơn đáp: “Tôi thấy có một người đàn ông, tuổi khoảng 60-70, ở trần truồng ốm lòi xương sườn, hai tay bị còng bằng dây xích sắt, đầu cổ mình mẩy đầy máu me, tóc bạc trắng xõa dài xuống khỏi vai, ông ta chấp hai tay van lạy tôi, nhờ tôi cứu ông ta”. Sau khi nghe Sơn thuật lại, kết hợp với sự kiện mẹ của Công ứng nhập xác về, hai sự việc hình như là điềm mách bảo trước sự đào tường trốn trại của chúng tôi bất thành. Nhưng sự việc đã tiến hành, chúng tôi vẫn tiến bước chứ không thể lùi lại được. Bên ngoài, càng về đêm trời càng mưa “mưa như trút nước”. Mấy tên công an tuần tra đi qua đi lại, tiếng đôi giày ống nghe lộp cộp vang lên. Mưa quá to nước chảy mạnh, làm mềm đất chiếc hầm đang đào bị sụp xuống, đất lấp cả người anh Tấn, một lần nữa tôi phải lẹ làng chui xuống hầm kéo mạnh anh lên để sơ cứu. Một hồi lâu anh mới tỉnh lại, khi tỉnh dậy anh cho biết trong người mệt lã không còn sức lực để tiếp tục đào được nữa bốn người chúng tôi còn lại cũng không thể mang lên cả khối đất khổng lồ vừa sụp lở đầy hầm như thể chưa đào lúc ban đầu.
Lúc này thật là”Tấn thối lưỡng nan”, kế tiếp buổi sáng đến, chúng tôi phải vào nhà vệ sinh rửa ráy tay chân. Thật oái oăm là bùn đất bên phòng chúng tôi đã làm nghẹt nhà cầu vệ sinh của các phòng ở phía sau giam các anh em của lực lượng quân sự trong tổ chức Lê Quốc Túy và Mai Văn Hạnh. Các anh em phía sau thông báo cho cán bộ an ninh phiên trực ban ngày. Nên công an bắt đầu mở khóa tất cả 2 dãy phòng trước và sau để kiểm tra.
Khi mở cửa đến phòng chúng tôi, trông thấy mấy khối đất khổng lồ. Họ liền chạy ra và lên chòi canh bắn súng chỉ thiên báo động. Thế là 5 người chúng tôi bị thua rồi! … Viện kiểm sát đến chụp ảnh, quay phim hiện trường, cách ly mỗi người, mỗi phòng khác nhau, chấp pháp điều tra, lập biên bản và Ban giám thị trại đề nghị viện kiểm sát khởi tố… chúng tôi bị cấm thăm nuôi, không được nhận quà gia đình, hai chân tôi bị còng quyện suốt ngày đêm hơn 1 năm… cho đến ngày thuyên chuyển đi miền Trung trại Xuân Phước tỉnh Phú Khánh. Anh Tấn thì bị ra tòa họ khép anh “Tội phản bội Đảng, tiếp tay cho bọn phản động có mưu đồ đánh phá trại giam trốn trại để cộng tác với các đối tượng thù địch, nhằm lật đổ chính quyền mà họ gọi là cách mạng của nhà nước CHXHCNVN”. Anh bị tăng án “tử hình” và đã bị đem đi hành quyết. Mặc dầu không thành công và anh Tấn đã qua đời cũng là điều đáng tiếc nhưng mấy lời này tôi muốn nói lên để khắc ghi tinh thần nhiệt tình mà anh Tấn đã đóng góp tích cực trong một chuyến đào tường vượt ngục bất thành. Xin cầu nguyện hương hồn anh một người đồng tù tại tỉnh Bạc Liêu được sớm tiêu diêu nơi miền lạc cảnh.
CHƯƠNG 6
TRẠI GIAM XUÂN PHƯỚC: NƠI RỪNG THIÊNG NƯỚC ĐỘC… “THUNG LŨNG CỦA TỬ THẦN!”
1. NGƯỜI NỮ ANH HÙNG: THÁI THỊ KIM VÂN
S
au vụ đào tường trốn trại bất thành. Tôi bị cùm quyện suốt ngày đêm, bị cúp thăm nuôi, không được nhận quà gia đình đã hơn một năm, đôi chân teo nhỏ lại và gần như bại liệt, đôi mắt trở nên mờ, thân thể ốm dần. Bất ngờ một hôm có một sĩ quan an ninh đến tại cửa phòng và thông báo tôi phải chuẩn bị đồ đạc cá nhân di chuyển gấp, chưa đầy năm phút sau, họ đến mở cửa, anh em các phòng bên cạnh đến kè tôi ra xe … một chuyến đi xa chưa biết sẽ về đâu?.
Chúng tôi tất cả gồm 21 người, 20 người nam và 1 nữ như sau:
Ông Huỳnh Quang Tiên, nguyên Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Công binh tỉnh Bạc Liêu
Ông Danh Hồng, nguyên Hạ sĩ quan Ban Quân nhạc Sư đoàn 21
Ông Trương Hồng Phến, nguyên Hạ sĩ quan Tiếp liệu Quân đoàn 4
Quách Văn Hoạch, nguyên Hạ sĩ quan Tiếp liệu Địa Phương quân tỉnh Bạc Liêu
Huỳnh Hữu, nguyên Sĩ quan Đà Lạt
Nguyễn Hồng Phúc, nguyên Sĩ quan Thủ Đức
Nguyễn Long Hội
Thái Kim Lái
Trương Văn Nam
Đặng Văn Hai
Trịnh Thanh Sơn
Lê Văn Tài
Võ Anh Dũng
Lâm Văn Hoàng
Nguyễn Văn Mạnh
Nguyễn Thanh Xuân
Nguyễn Thanh Phong
Huỳnh Văn Ba
Lâm Hồng Sương
Lý Son
Chị Thái Thị Kim Vân, nguyên sĩ quan huấn luyện viên trường Nữ quân nhân.
Điều khá trùng hợp là vụ án chính trị của tôi có 21 người, 20 nam và 1 nữ và chuyến viễn hành bị lưu đày kỳ này cũng 21 người, 20 nam và 1 nữ. Đặc biệt chuyến lưu đày biệt xứ này có chị Thái Thị Kim Vân là người được ưu ái và được sự quan tâm nhiều nhất của các anh em. Sự ưu ái quan tâm không những vì chị duy nhất là giới nữ lưu, mà mọi người còn trân trọng, khâm phục và mến mộ vì chị là một người nữ “Anh hùng” tại tỉnh Bạc Liêu. Phải nói rằng, chị có trái tim bằng thép của một "Đấng nam tử trượng phu” hay là một “Nữ tướng hào kiệt” mới đúng. Trước đây chị từng là một Sĩ quan huấn luyện viên trường “Nữ quân nhân” về môn sử địa, quê quán Sài Gòn chị tham gia vào tổ chức "Mặt trận Dân tộc Tự Quyết”. Với chức vụ là Chánh văn phòng Mặt trận Trung ương, chị bị kết án chung thân. Ngay khi vào tù tôi đã được nghe tiếng tăm vang lừng của chị, với tinh thần nhiệt quyết, bản lĩnh, gan dạ một tấm lòng son sắt, chị có tài hùng biện, lời lẽ đanh thép. Chị từng ứng đối trước Hội đồng xử án 2 lần, sơ và phúc thẩm khiến các vị chánh án phải đuối lý mất mặt. Tòa án có căm giận, ghét chị chứ không dám khinh thường, bao năm qua, bản thân tôi cũng nằm trong kỷ luật chỉ nghe danh chị chứ chưa có dịp diện kiến. Chị luôn đi đầu trong các phong trào đấu tranh vì quyền sống, đòi hỏi yêu sách trong nhà tù, vượt hẳn tinh thần và ý chí của nhiều nam giới, tôi bị cùm quyện kéo dài bao lâu, thì tại phòng nữ kỷ luật chị cũng bị xiềng xích gông cùm, bị hành hạ đủ điều. Thậm chí chị còn bị công an đánh gãy cả hàm răng, chỉ vì chị dám hô to trước trại “Đả đảo cộng sản”. Chuyến đi xa này cũng là lần đầu tiên tôi trực tiếp, tiếp xúc hỏi thăm chị, bởi có dịp cùng chuyến viễn hành. Ngược lại chị cũng nghe nói nhiều về tôi “một ông thầy tu hay luôn xông pha vào dầu sôi lửa bỏng” sự gặp gỡ này cũng là đánh dấu kỷ niệm những năm tháng khổ sai, lưu đày biệt xứ của những người dấn thân đi cứu nước cứu dân.
2. DỪNG CHÂN HAI ĐÊM TẠI KHÁM CHÍ HÒA, GẶP ĐẠI BÀNG NHƯNG BÌNH AN VÔ SỰ…
Kỷ niệm hai đêm tạm nghỉ tại khu AH khám Chí Hòa Sài Gòn trên đường di chuyển lưu đày...
Chuyến xe đưa 21 người chúng tôi khởi hành từ buổi sáng sớm, nhưng vì lý do thủ tục, xăng dầu, gạo thóc, vũ trang theo xe bảo vệ v.v…Cho nên từ trại cải tạo Cây Gừa đến thành Phố Sài Gòn thì trời đã sụp tối. Đèn thành phố trong những năm này có chỗ sáng chỗ tối, những doanh trại của quân đội, công an hay những cơ quan đầu não của chính quyền thì đường phố nơi ấy sáng trưng dưới ánh đèn điện, còn những nơi khác thì tối tăm, quang cảnh tiêu điều. Người đi dạo phố thưa thớt, trên các ngã đường không còn nhộn nhịp như xưa, những quán xá cũng giảm bớt. Thế nhưng trên đường phố xuất hiện những tên Việt cộng quần áo, mũ nón đủ loại của một đoàn quân ô hợp. Người ta chỉ nhìn lên hễ trông thấy các tòa nhà nào có phơi treo đủ loại quần áo lớn nhỏ kể cả loại kín đáo nhất của phụ nữ hay quần đùi, áo thun lá của nam giới bay phất phới trước mặt tiền của ngôi nhà, thì biết đó là nếp sống “văn hóa mới”, nền ” văn minh thời thượng” của cộng sản rồi ...! Những tầng lầu cao có lá cờ đỏ sao vàng thật to hay có những khẩu hiệu thật lớn thì nơi ấy có VẸM loại to rồi, cho nên:
Đất Sài Gòn chốn đô thành hoa lộng
Được nổi danh là vang bóng yêu kiều
Vui bao nhiêu nay buồn thảm bấy nhiêu
Bởi cộng sản dùng luật điều khắc khổ...!
Xưa du lịch động cơ máy nổ
Nay đạp xe lội bộ đi chân
Nền văn minh chính ủy chuyển sang
Quay trở lại cả trăm năm về trước...!
Thiếu nhiên liệu, điện, than, củi, nước
Bao nhu cầu thiếu trước hụt sau
Như mũi tên bắn tận trời cao
Không điểm tựa tên lao xuống đất...!
Lỡ bấy lâu lên lưng cọp vác
Nên cũng đành nhắm mắt xuôi tay
Nhảy xuống thì bị xé xác phanh thây
Đành nhắm mắt rủi may cho định số...!
Nhìn xã hội mịt mù tăm tối
Bao thanh niên tấn thối lưỡng nan
Kẻ ăn chơi phóng túng hoang đàng
Kẻ bất mãn bi quan yếm thế...!
Sống gửi thân trở thành người hư phế
Như chỉ mành khác thể treo chuông
Như cây dâu thân tầm gửi dựa nương
Đành hủy diệt như hạt sương gặp nắng...!
Kẻ ý thức biết phân tà chánh
Vội lên đường xa lánh chốn phồn hoa
Vào mật khu quyết chiến xông pha
Để chống lại bọn gian tà bạo ác...!
Bế cửa chùa, nhà thờ, thánh thất
Có Linh mục, có Chức sắc, có nhà sư
Có Mục sư, có Đại đức, có Tăng ni
Có con Chiên, Tín đồ trong các đạo...!
Có các tầng lớp, Thiếu thanh, Phụ lão
Quyết vùng lên như sóng bão trùng dương
Kẻ công khai người bí mật lên đường
Từ thành thị, núi rừng miền thôn dã...!
Sự tự nguyện do lòng dân tất cả...!
Chuyến xe họ đưa chúng tôi suốt một ngày đường, khi đến thành phố Sài Gòn là vào chiều tối thứ bảy, Công an Bạc Liêu gửi 21 người vào khám Chí Hòa để tạm nghỉ hai đêm, sáng sớm thứ hai sẽ tiếp tục cuộc hành trình. Ngày chủ nhật bọn công an nhà quê Bạc Liêu ở tỉnh lẻ muốn đi cho biết Chợ Lớn, Sài Gòn. Số gạo mang theo đường cho chúng tôi họ đem đi bán để lấy tiền tiêu vì ở Sài Gòn lúc bấy giờ gạo đắt đỏ lắm ! Hai mươi người đàn ông chúng tôi được gởi ở tầng trên của khu AH, nơi phòng giam của thường phạm, còn chị Thái Thị Kim Vân được gởi ở tầng trệt phía dưới các phòng dành cho nữ tù.
Thông thường theo phép lịch sự của người mới đến, khi bước vào phòng giam tất cả anh em chúng tôi đều mỉm cười gật đầu chào xã giao với những người cố cựu trong phòng. Bỗng có một chú thanh niên, tuổi chừng 20 mình trần mặc chiếc quần đùi xanh da trời, thân thể có nhiều vết xăm ra đứng ngay giữa phòng tay kéo lưng quần xuống khỏi rốn, để lộ cả hạ mao… anh ta vỗ tay ba tiếng, hai tay chống nạnh và la to:
- “Tập thể hãy im lặng, giữ trật tự”.
Mọi người trong phòng liền im phăng phắc, tất cả đều ngồi thẳng lưng và họ đang trố mắt nhìn chúng tôi. Khi đợi mọi người im lặng, anh Đại Bàng trẻ tuổi này nhìn thẳng vào chúng tôi và nói:
- “Tất cả các anh mới nhập phòng hãy nghe lệnh tôi, phải thực hiện đúng quy định của phòng đề ra. Bây giờ ngay tức khắc tôi yêu cầu tất cả các anh tự chính mình cởi quần áo ra hết, mỗi người chỉ còn duy nhất chiếc quần đùi và tất cả hãy quì gối xuống quay mặt vào tường nhanh lên”.
Tôi thật quá bất ngờ với câu nói đầy quyền uy và mệnh lệnh mà tôi chưa từng được nghe trong đời. Tôi tự hỏi tai của mình nghe không biết có chính xác không? Tôi dường như không mấy tin vào tai của mình nữa! Lúc ấy cả 20 người chúng tôi ngơ ngác nhìn nhau chưa biết phải đối phó như thế nào? Như nóng lòng chờ đợi, anh Đại Bàng trẻ tuổi này lập lại một lần nữa…
Trong lúc ấy phía trên đầu hàng ông Thiếu tá Huỳnh Quang Tiên và ông Nguyễn Long Hội quay nhìn xuống phía cuối hàng hỏi ý kiến của tôi:
- “Theo ý Thầy Thiện Minh mình quyết định như thế nào?”
Tôi quan sát toàn phòng khoảng 40-50 người đa số là ốm yếu bệnh hoạn còn chúng tôi 20 người, ngoài tôi ra thì mọi người thể lực rất sung mãn, đa số là quân cảnh, sĩ quan huấn luyện viên võ thuật, đặc biệt ông Danh Hồng người Khmer biết gồng dao chém không đứt. Bản thân tôi tuy đi đứng không vững, nhưng đôi tay có thể tự bảo vệ cho mình, nếu có sự xô xát xảy ra. Tôi suy nghĩ mình làm việc đại nghĩa này mà lại có người cư xử với mình thô bạo như vậy thì làm sao chấp nhận được! Tôi liền lên tiếng và nói to:
- “Tất cả 20 người chúng tôi đều là tội chính trị, đa số là án tử hình mới giảm xuống chung thân. Chúng tôi làm chính trị để đi cứu lấy đồng bào trong đó có các anh em. Công an tạm gởi chúng tôi ở đây 1 – 2 đêm thôi, sáng thứ hai chúng tôi sẽ lên đường bị lưu đày tận miền Trung rồi! Không biết chừng nào được về và cũng không biết sống chết ra sao? Không lẽ đến đây chỉ ở tạm một vài đêm mà các anh em nỡ lòng nào cư xử với chúng tôi như thế này sao?”
Khi nghe tôi nói anh Đại Bàng hỏi vặn lại một lần nữa!
- "Các anh nói các anh tội gì?”
Tôi trả lời:
- “Tất cả chúng tôi đều là tội chính trị, âm mưu lật đổ chính quyền, hầu hết là án tử hình xuống án chung thân.”
Liền khi ấy anh Đại Bàng vội vàng kéo lưng quần lên khỏi rốn, anh bảo một người đem chiếc áo cho anh mặc vào. Anh ta hoàn toàn thay đổi thái độ, lời nói ôn tồn nhã nhặn rất lễ phép và trân trọng như chưa hề có chuyện gì xảy ra. Anh đổi cách xưng hô gọi chúng tôi bằng các bác, các chú và xưng là con anh ta nói:
- “Con không biết, con tưởng là tội hình sự, vì khu AH này là khu giam giữ thường phạm từ trước đến nay, xin các bác, các chú tha lỗi cho”.
Sau đó anh đi thẳng đến chỗ tôi đang ngồi, anh ngồi xuống nắm chân tôi vừa nói anh vừa đứng lên miệng mỉm nụ cười hiền lành:
- "Xin thầy tha lỗi và thông cảm cho con! Thầy hơi nóng quá !”
Anh Đại Bàng ra giữa phòng vỗ tay ba tiếng lần thứ hai và nói:
- "Tôi ra lệnh cho tất cả mọi người cũ trong phòng hãy dọn chỗ nằm ra hai bên để khoảng trống chính giữa dành chỗ nằm cho các bác, các chú và ai còn dự trữ nước hãy đem hết xuống cho các bác, các chú tắm nhanh lên!”
Khi chúng tôi tắm xong trong người cảm thấy tinh thần sảng khoái, khỏe khoắn vô cùng vì rửa sạch hết bụi bám đường xa trong một ngày dài mệt nhọc, lúc ấy nhà bếp khám Chí Hòa đã mang lên một thúng cơm còn nóng hổi. Nhưng thức ăn và hành lý chúng tôi hoàn toàn để hết trên xe rồi! Anh Đại Bàng lại tiếp tục ra lệnh lần thứ ba nữa:
- "Ai có thức ăn mang xuống cho các bác, các chú”.
Thật là xúc động khi nhìn thấy mọi người rất vui vẻ và sẵn sàng mang thức ăn đến, trong đó có cả thức ăn chay cho riêng tôi nữa !
Đêm đó 20 người chúng tôi thao thức khó ngủ, mọi người trong phòng quây quần nhau tâm sự trong một không khí thân mật đầm ấm. Tôi hỏi ra dường như qui định ngồi tại chỗ, vừa được nới lỏng cho toàn phòng sinh hoạt vì có sự nể nang chúng tôi, riêng tôi có 2 cháu nhỏ đến xoa bóp đôi chân bị liệt và kè dắt tôi đi tới đi lui để tập cho đôi chân được lưu thông máu huyết. Sáng sớm hôm sau là ngày chủ nhật toàn phòng sinh hoạt văn nghệ. Tôi không biết hát nhưng kể vài mẫu chuyện ngắn giúp vui. Và rồi, sự đời có hợp có tan, bữa tiệc vui nào rồi cũng có lúc tàn. Đúng 4 giờ khuya rạng sáng thứ hai anh em cả phòng đều thức dậy thật sớm để tiễn đưa chúng tôi, một buổi tiễn đưa đầy lưu luyến và hứa hẹn. Mọi người bắt tay từ biệt và cầu chúc những câu nói tốt đẹp nhất mà người đời thường chúc tụng cho nhau.
Chuyến xe bắt đầu chuyển bánh rời khỏi trại giam Chí Hòa lăn mình hướng về Đồng Nai. Suốt một ngày đường phải qua các tỉnh Đồng Nai, Long Khánh, Bình Tuy (Hàm Tân), Bình Thuận, (Phan Thiết), Ninh Thuận (Phan Rang- Phan Rí), v.v… Và xe chở tù cũng tạm dừng nghỉ qua đêm tại trại giam Nha Trang vì trời đã tối. 20 người nam chúng tôi, mỗi người đều bị xiềng một chân chung hai xâu quyện nơi phòng dành riêng điều tra, còn chị Thái Thị Kim Vân được gởi ở phòng đan nón lá của nhà giam lao động nữ. Sáng hôm sau khi lên xe thì chi Kim Vân thông báo cho mọi người một tin vui nho nhỏ là phòng giam lao động nữ Nha Trang biếu tặng mỗi người 1 cái bánh đa và 1 chiếc nón lá đồng thời cầu chúc thượng lộ bình an. Khi xe chạy nhìn hai bên đường cảnh đồng khô cỏ cháy, nhà nhà đều phơi sắn trước sân loại khoai mì Công nghiệp H34 của Ấn Độ, họ xắt lát mỏng phơi chật hai bên đường hoặc trước nhà dự trữ để dành ăn độn. Trên bãi cỏ xa xa, những con bò thiếu cỏ ốm lòi trơ bộ xương, cổ dài ra, bụng teo tóp lại, dáng đi chậm chạp từng bước một, đôi mắt ngờ ngạc trông rất thảm thương. Tôi chợt nghĩ, nơi đây người người còn quanh năm thiếu đói, thì làm sao con vật no đủ được...!
Tôi mải mê với cảnh vật xa lạ thì trời đã xế chiều, ánh mặt trời lùi dần sau những rặng núi Trường Sơn chỉ còn thấp thoáng một vầng màu hồng nhạt ở tận cuối chân trời xa thẳm. Trên trời, những đàn chim rừng từ phương xa lần lượt rủ nhau bay về tổ, cũng là lúc đoàn người chúng tôi trên chiếc xe tù gần đến cổng lớn trại giam. Tôi trông thấy một bảng hiệu to tướng được gắn trên hai cây cột được đúc bằng bê tông cao 7-8 mét “Trại Cải tạo Xuân Phước” và bên trên có nhiều lá cờ ngủ sắc tôi tưởng chừng như nơi đây là hang động hay là am miếu của các vị pháp sư. Đúng! đây là nơi mà những người đã đi qua còn sống sót đặt cho cái tên khủng khiếp “thung lũng tử thần” là nơi địa ngục trần gian thật vô cùng khốc liệt.
Sau khi xuống xe trình thủ tục nhâp trại thì chúng tôi nhận được một tin buồn là “Nơi đây không nhận nữ tù”, thế là chị Thái Thị Kim Vân phải thu xếp hành lý để quay trở về Bạc Liêu. Là nữ giới mà phải chịu thêm một chuyến khứ hồi thật vô cùng thương cảm. Bản tính chị Vân rất kiên cường, cứng rắn nhưng trước sự chia tay này chị đến bắt tay từ giã từng người trong sự xúc động nghẹn ngào, nước mắt chị chảy nhiều, thật nhiều vì không có dịp ở gần gũi bên cạnh các anh em, trong chuyến đồng hành lưu đày biệt xứ để cùng đồng cam cộng khổ có nhau. Gần 1 năm sau anh em chúng tôi mới hay tin, công an Minh Hải đã chuyển chị đến trại Hàm Tân Z30D ở Bình Thuận. Được biết chị không quen với khí hậu thời tiết nơi đây, vừa bị cưỡng bức lao động khổ sai nên chị đã mắc bệnh lao phổi khá nặng, gia đình đã nhiều lần làm đơn yêu cầu xin bảo lãnh chị về thành phố điều trị nhưng không biết kết quả thế nào và từ đó đến nay biệt tăm tin tức. Qua trang Hồi Ký, tôi chân thành gửi đến chị lời chúc nguyện an lành.
CHƯƠNG 7
NHÂN CHỨNG SỐNG NƠI “THUNG LŨNG TỬ THẦN !”
T
ừ trại cải tạo Cây Gừa tỉnh Minh Hải đi đến trại Xuân Phước, Phú Khánh (nay là tỉnh Phú Yên) nếu xe có dừng nghỉ lại đêm thì phải mất hai đêm ba ngày, đường xa hơn 1200 cây số. Trại Xuân Phước tức trại A20 gồm ba phân trại nhỏ, mỗi phân trại có thể chứa trên dưới 1000 người. Địa thế nằm dưới thung lũng, chung quanh là rừng núi âm u với dãy Trường Sơn bao la, nơi sơn cùng thủy tận, tưởng chừng như là chỗ cuối đất cùng trời nên ít thấy bóng người. Nếu tù nhân nào đi lao động làm rộng, thỉnh thoảng sẽ trông thấy một vài người dân tộc thiểu số, người miền sơn cước họ thường mang chiếc gùi sau lưng, đi làm rẫy, kiếm củi, săn thú, v.v…Tại phân trại 1, lúc bấy giờ hầu hết các phòng đều giam giữ tội xâm phạm an ninh quốc gia, trước kia trại nầy giam giữ các sĩ quan tập trung cải tạo cũ, chỉ có hai phòng dành cho thường phạm. Nơi đây khí hậu thời tiết khắc nghiệt, nắng lửa mưa dầu, sơn lam chướng khí, người tù dễ bị nhiều chứng bệnh bất thường như sốt rét kinh niên, vàng da, bại liệt, sạn thận, mù lòa, lao phổi hay tâm thần điên loạn, cuộc sống khốn khổ ăn uống đói khát, thiếu thốn đủ mọi bề, bệnh đau không đủ thuốc, quần áo không đủ mặc, gia đình ở xa xôi không khả năng thăm viếng, cho nên có đã đến đây dù chỉ một lần thôi thì đã vĩnh viễn ra đi không còn trở lại quê nhà, nếu có về được chỉ là hình ảnh gầy guộc với tấm thân tàn ma dại, chỉ làm khổ thêm gánh nặng gia đình. Xin mô tả nhà tù Xuân Phước bằng vài câu thơ sau đây:
Trại Xuân Phước miền trung Phú Khánh
Nhà giam tù nơi Chí Thạnh Đồng Xuân
Được nổi danh là thung lũng tử thần
Tù giải đến khắp xa gần trong nước
Trại trừng giới tập trung miền sơn cước
Rừng núi đồi liên tiếp phủ vây quanh
Dãy Trường Sơn như một bóng khung thành
Để trấn giữ định ranh miền Trung Việt
Tỉnh Phú Khánh do hai danh từ liên hiệp
Tức Phú Yên ghép tiếp tỉnh Khánh Hòa
Dãy Trường Sơn không bóng một căn nhà
Đồng cỏ cháy cách xa dòng suối biếc
Nơi nắng lửa mưa dầu thảm thiết
Thú rừng thiêng trông ghê xiết chốn hoang vu
Trên mây giăng phủ rừng núi âm u
Dưới thung lũng ba trại tù khá rộng
Hàng ngàn người khổ sai trong lao lý…
Còn biệt giam đầy những bóng cùm gông...!
Tôi đến trại này, thì trước đây trại đã có nhiều người bỏ xác… và hiện giờ:
Còn nhiều nấm mồ đã xanh cỏ mấy mùa qua.
Không ai đốt nén hương cho người nằm xuống...!
Cũng không người đưa tiễn bãi tha ma!
Những người tù còn sống kể lại, chẳng hạn đoàn tàu “Việt Nam Thương Tín” đi tỵ nạn vì một lý do nào đó xin trở về VN. Thay vì được đón tiếp vì đã quay trở về thi hàng trăm người bị bắt nhốt nơi đây. Họ đã chết dần gần hết, số người may mắn còn sống sót, đếm lại không đủ đầu ngón tay. Xuân Phước khét tiếng với khu kỷ luật gồm 3 loại cùm, loại khoen tròn, loại khoen chữ V và loại khoen chữ V có khía hình răng cưa. Tùy theo thái độ của người Tù mà họ ứng xử, hoặc phát cơm chan ngập nước muối, ăn vào mặn đắng không tài nào nuốt nổi. Đặc biệt trại tù xử dụng những tên gọi là Trật Tự để trù dập, đánh đập, bớt nước uống, bớt cơm của tù nhân, v.v…Ở trại K1 có tên “Tân” tội hình sự là bộ đội CS, đã từng ăn gan người ở Campuchia, nên đôi mắt lúc nào cũng đỏ ngầu trông phát khiếp, còn ở K2 thì có tên “Của” là Thượng Úy cũng tội hình sự, các tên nầy thuộc loại gian ác thâm độc,đều là quân phạm, được Ban giám thị chọn lựa cho làm trật tự coi tù. Trong thời gian tôi bị giam giữ taị K2, hôm nào tên Của vào chia cơm kỷ luật thì hắn ta “chửi chó mắng mèo”,“chỉ kê mạ khuyển”, dùng những lời cạnh khóe chửi bới thậm tệ những người tù Chính Trị và Tôn giáo, xúc phạm đến cả Thần Thánh.
Một hôm từ nơi biệt giam K2, tôi bị bệnh nặng phải đưa về phân trại K1 để cấp cứu, trong khi sức yếu đi đứng không vững, tôi phải chống hai cây nạng mới lê lết đi từng bước. Thấy tôi đi quá chậm, tên“Của” xấc láo nầy cứ hối thúc và mắng chửi thậm tệ, hắn chạy tới đạp tôi té bổ nhào, ngã quỵ bên đường không thể đứng dậy nổi. Hắn đi tìm mấy tàu lá dừa, đặt tôi nằm lên và lấy dây buộc thật chặt thân thể tôi lại, rồi kéo tôi trên đường nhiều đá sỏi, lúc nầy đầu mình, tay chân tôi bị xây xát trầy trụa rớm máu tươi, hắn còn chửi đổng nhiều câu tục tằn cho bỏ tức. May mắn lúc ấy có chiếc xe bò của tù đang chở sắn đi ngang, hắn kêu xe dừng lại và nhờ người đánh xe cùng hắn khiêng ném tôi lên xe chẳng khác gì như quăng một khúc gỗ, đã vậy mà hắn vẫn chưa chịu tháo dây, đợi xe bò kéo gần tới trại K1 hắn mới mở trói.
Những tháng ngày kỷ luật tại K2, Linh Mục Nguyễn Huy Chương đã chết vì đói khát, vì bạo bệnh không được chữa trị kịp thời bởi thủ tục rườm rà và nhất là có thành kiến với tôn giáo. Có những hôm trong kỷ luật, Linh Mục Chương cùng Thượng tọa Thích Huệ Đăng tức Thầy Nguyễn Ngọc Đạt phải ngồi rửa từng hạt cơm và đếm chỉ được vài mươi hạt. Hai nhà lãnh đạo tinh thần ngồi nhìn nhau rồi lắc đầu, vì nước muối quá mặn, thóc sạn cũng quá nhiều và thêm mấy lát khoai mì có mùi ẩm mốc; nước muối quá mặn nên ai cũng bị khát nước, khát đến khô cuống họng. Hôm nào có người trong phòng được gọi lên làm việc, khi đi ngang chỗ lò rèn ghé tạt ngồi xuống thật nhanh, uống thật nhiều nước ngâm sắt lò rèn để về phòng tiểu lại cho bạn tù uống, hoặc đi làm việc mà xin được đi tắm thì cũng uống nước thật đầy bụng để về chia sẻ với anh em.
Trại Xuân Phước nầy trong thời kỳ tên Trung Tá Thân Yên làm Giám thị là kinh khiếp nhất, hắn là tên đại ma đầu, đại thâm độc. Nếu ai được dịp tiếp xúc với những người tù đã từng ở trong thời kỳ nầy kể lại thì mới thấy rõ cái chính sách bạo tàn của CS vô lương. Ngoại trừ những tên đã từng làm Ăng-ten thì mới bênh vực cho tên Thân Yên mà thôi. Ngoài ra, thời kỳ tên Trung Tá Nguyễn Văn Bàng về thay thế Thân Yên thì có thay đổi đôi chút, nhưng Bàng là loại vỏ biền chuyên đánh giặc nên cũng thích đấm đá hơn là chính trị, hoặc dùng lời lẽ khinh mạn mạt sát tù chính trị thường ngày, kể cả thuộc cấp của ông ta. Một hôm gặp cơn mưa to, nước chảy xiết cuốn trôi một số mạ vừa mới cấy. Đội 1 chúng tôi được phân công đi dặm lúa… Tên Giám thị Bàng đứng trên bờ nhìn xuống nói: “ĐM… Đồ quân phá hoại, chúng mầy làm nhanh tay một tí”. Cán bộ quản giáo Đội tên Trúc có ý kiến đề xuất những khó khăn của phạm nhân trong việc phơi lúa vào mùa mưa. Tên giám thị Bàng hét to trước mặt tù nhân: “Đồ mới nứt mắt mà đã mất dạy rồi, bộ muốn bênh vực cho lũ phản động hả!”. Tên Giám thị này chẳng giữ thể diện cho ai, kể cả sĩ quan thuộc cấp của y, muốn chửi ai thì chửi, muốn mắng ai thì mắng…
Nhiều lần trước mặt tù nhân Chính Trị ông ta thường rêu rao “Chúng ông sẽ nhốt cái quân phá hoại chúng bây cho đến khi nào chống đối trở thành chống gậy” quả thật câu nói nầy gần như phổ biến trong các nhà tù được phát ra từ miệng của những tên trưởng giám ngục ác ôn. Ta có thể suy ra có lẽ họ được chỉ thị hoặc một huấn lệnh nào đó từ Trung ương Hà Nội, cho nên nói ra y hệt có một khuôn. Nhà tù Xuân Phước được tập trung về đây có đủ cả ba miền Nam,Trung, Bắc, đủ mọi thành phần, mọi giới từ những em bé còn thơ cho đến các cụ bô lão tuổi trên 80. Cho nên:
Có những người thương phế binh tàn tật
Có những người đã cụt mất tay chân
Có những em bé tuổi mới mười lăm
Có các bô lão tuổi hơn tám chục
Có đủ tôn giáo, màu da, sắc tộc
Có đạo Kitô, đạo phật, đạo cao Đài
Có đa thần, đạo Hòa Hảo, đạo Ba Hai
Có Miên, Hoa, Việt, Tày, Chàm, Thượng
Có ấp, xã, huyện, tỉnh, thành, bộ trưởng
Đủ thành phần Tá, Tướng, Quan binh
Có Giáo Sư, có Bác Sĩ, có học sinh
Có đủ tầng lớp liên minh và Đảng phái
Có nhân bản, có duy dân, có cộng tồn, nhân ái
Có cần lao, có Đại việt, có Quốc dân
Tất cả đều là chính trị tù nhân
Do luật pháp của Cộng quân xử phạt
Tù lao động cả luôn ngày chủ nhật
Cũng có khi làm cả suốt ban đêm
Ai đấu tranh thì khám tối xà lim
Bốn tiêu chuẩn, nội qui kèm là luật lệ
Bởi nước sông công tù ai tính kể
Khi có quyền có thế ở trong tay
Có lưỡi lê có súng máy có quyền oai
Có roi điện, khảo tra ai chống đối
Có kiên giam, có biệt giam, có khám tối
Có quyện còng, cùm trói, gông xiềng
Cúp thăm nuôi, cúp quà phẩm, cúp lẫn tiền
Phạt kỹ luật buồng giam riêng nơi nhà trắng
Sự mạt sát dùng những lời nhẹ nặng
Hoặc roi đòn tra tấn dã man
Bốn, năm người đánh một tù nhân
Đánh roi điện cho tan thân đổ máu.
Khi làm việc hoặc là tra khảo
Hỏi an tâm cải tạo hay không
Nếu muốn cho sự việc được an thông
Thì chắc chắn phải dối lòng khi phúc đáp.
Bởi an tâm chỉ là công thức
An làm sao khi cùng cực đọa đày
An làm sao khi bản án khổ sai
An làm sao những tháng ngày xa xứ?
An làm sao khi đêm trường tư lự
Suy nghĩ nhiều về hai chữ Việt Nam
An tâm làm sao khi Cộng Sản quá gian tham
Vì lời nói và việc làm không thiết thực?
An tâm sao khi xa gia đình, xa quyến thuộc
Xa anh em, xa cốt nhục tình thâm
Xa vợ, xa con, xa tình nghĩa thân quen
Thiếu thốn cả tinh thần và vật chất...!
An tâm sao khi tự do đã mất
An tâm sao khi bệnh tật đeo mang
An tâm sao khi gia cảnh cơ hàn
Có người còn xuống suối vàng an nghỉ...!
Chỉ an tâm khi tìm ra chân lý
Chỉ an tâm, khi có chí khí lập trường
Chỉ an tâm khi có lý tưởng kiên cường
Nhất định thắng, con đường ta tất thắng...
1. ĐỜI SỐNG TINH THẦN VẬT CHẤT CỦA NGƯỜI TÙ Ở TRẠI XUÂN PHƯỚC
Tại Thung Lũng Tử Thần, đời sống của người tù thật vô cùng thiếu thốn khó khăn về tinh thần lẫn vật chất.
a) Về mặt tinh thần: Người tù bị hạn chế, hay nói đúng hơn là bị cấm không được thể hiện sự tín ngưỡng hay niềm tin tôn giáo, không được sử dụng bút mực, giấy. Không cho mang vào các loại sách báo, kinh sách thánh hiền để người tù có thể cập nhật và nâng cao kiến thức của mình, cho dù sách báo do nhà nước VN xuất bản, người tù chỉ duy nhất được xem tờ báo nhân dân, là tờ báo tuyên truyền của Đảng Cộng Sản mà thôi!
b) Về mặt vật chất: thì họ đày đọa người tù với bản án khổ sai lưu đày biệt xứ, khi vào tù lúc mái tóc còn xanh, mãn hạn tù thì bạc cả mái đầu, cuộc sống quá khốn khổ cho nên nghĩ mà thương:
Thương cho ai kiếm rau trời,…
rau dại sống linh tinh
Ăn cỏ hôi, ăn vỏ chuối…
ăn lục bình, rau trai, rau dớn
Ăn dế, cào cào, cóc…
ốc, cua, nhái sống
Ăn bọ hung, ăn trùng...
ăn rít rắn lẫn kỳ nhông
Kiếm thêm chút sắn khoai…
đã cảm thấy no lòng
Mặc khí hậu bốn mùa...
Xuân, Hạ, Thu, Đông bất kể...!
Nào ghẻ chóc…
thũng, sưng, bại liệt
Nào mù lòa…
đui, điếc thác oan
Nào bệnh lao…
sạn thận, bàng quang
Đành gởi nắm…
xương tàn vùng Xuân Phước...!
Có những người ở tù lâu năm, hoàn cảnh gia đình khó khăn, không đến thăm nuôi được, lại ngặt là có bệnh nghiện thuốc lá … nghiện thuốc mà không có tiền mua thì phải xin anh em. Nhưng, anh em đồng tù cũng chẳng ai khá giả gì, nghiện thuốc đi xin hoài cũng ngại… muốn bỏ thì bỏ không được. Nếu có bỏ được vài hôm sau hút lại thì sẽ hút tăng thêm, nên chỉ còn có kế hoạch cuối cùng là chờ đợi lúc đêm về, chuẩn bị sẵn một cái bọc ni lông, tối đến đầu giường những người có thuốc hút thường xuyên, đổ trút hết những lon gạt tàn thuốc của họ, mang về chỗ nằm của mình, rồi nhặt ra, đem để vấn hút lại. Trong tù thường gọi là “bắt dế nhũi” còn điếu thuốc nào thừa nhiều thì gọi là ” bắt dế cơm”.
Có những người tù lâm cơn túng ngặt
Nhặt thuốc tàn để hút đỡ cơn ghiền
Buổi trưa hè thức trọn dưới mái hiên
Nướng bánh bột cho đỡ phiền cơn bụng đói
Không theo Cộng chúng kêu là phản động?
Yêu quê hương là có tội hay sao?
Mang tội danh là âm mưu lật đổ án cao
Thật phi nghĩa và biết bao phi lý !
Trong thời kỳ, người người vượt biên ra đi ồ ạt, nếu chẳng may bị bắt lại thì kết tội “Phản quốc, trốn ra nước ngoài bất hợp pháp”. Nếu đi thoát được sang định cư nước khác, sau nầy nếu có dịp trở về thăm quê hương thì lại được Nhà nước Việt Nam gọi một cách trân trọng là: "Việt kiều yêu nước” bởi lúc này có đô-la đem về nên tên gọi cũng thanh cao. Nếu vượt biên bị bắt lại, bị cầm tù mặc dầu thời gian không lâu, nhưng nhà tan cửa nát, ít người đến thăm nuôi, ăn uống thiếu thốn, lại gặp cảnh rừng thiêng nước độc, phát sinh bệnh mà chết cũng không ít cho nên:
Hàng triệu người đã bỏ nước ra đi
Vì sống không nổi với bạo quyền Cộng Sản
Họ cũng yêu nước thương dân vô hạn
Chớ nào ai lại bội phản đồng bào...!
Cây cột trụ đèn, lòng còn những ước ao
Nếu có chân cột cũng kiếm tàu sang nước khác
Người vượt biển nếu chẳng may bị bắt
Khép tội danh trốn bất hợp pháp bỏ đi...!
Nếu an toàn thoát khỏi cảnh hiểm nguy
Sang nước khác được tự do sung túc
Sau về nước thăm thân bằng quyến thuộc
Thăm gia đình thăm đất nước mến yêu...!
Lúc bấy giờ được Cộng Sản chắt chiu
Và trân trọng ông “Việt kiều yêu nước”...!
2. VƯỢT NGỤC NHẰM CƯỚP TRẠI GIẢI THOÁT TÙ NHÂN LẦN THỨ HAI BỊ THẤT BẠI
C
hứng kiến nơi “Thung Lũng Tử Thần” tức nhà tù Xuân Phước sự ngược đãi tù nhân rất tàn tệ, người tù sống trong cảnh thiếu thốn mọi bề, vô cùng nghiệt ngã. Hàng trăm người già yếu mắc bệnh tật nguy nàn đang sống quằn quại vật vã vì đau đớn khổ sở giống như cành khô củi mục không biết sống chết lúc nào. Những người bị tàn phế, nỗi bi quan cứ gặm nhắm từng giờ, từng phút, từng giây sức khỏe của họ, mặc cho thời gian đưa đến đâu hay đến đó như chấp nhận cảnh nước chảy bèo trôi. Bên cạnh, hằng ngày nhiều tù nhân bị kiệt sức vì bị cưỡng bức lao động khổ sai hoặc bị đánh đập tàn bạo man rợ, tính bình quân thì tháng nào cũng có vài người chết. Có khi chết liên tục một tháng 5-3 người, đây là chuyện thường xảy ra… và:
Trông thấy người khác chết
Trong lòng rất xót xa
Nửa thương xót kẻ chết
Nửa nghĩ tới phiên ta...!
Những ngày đầu mới thành lập trại này thì thật là khủng khiếp, tù nhân bệnh nặng không có thuốc chữa trị, mặc dầu có bác sĩ giỏi, bác sĩ đang cải tạo đành bó tay đứng nhìn bệnh nhân giãy chết. Bệnh nhân là những người anh em cùng cảnh ngộ như mình rất đáng thương, thương lắm nhưng biết phải làm sao? Giai đoạn đầu tù nhân chết không có quan tài, chỉ bó sơ một chiếc chiếu không được lành lặn cho lắm. Về sau mới có quan tài nhưng không đủ đinh để đóng nắp đậy, khi đưa xác đi chôn quan tài được đặt trên một chiếc xe gọi là "xe cải tiến” dùng tay đẩy đi. Khốn khó trong khi đẩy đinh bị mục, ván thùng xe rớt xuống đất, chiếc quan tài cũng rớt theo thi hài lộ ra ngoài nằm sõng soài trên đất.
Tôi nhận thấy hàng nghìn người đang sống quằn quại, đành cam chịu dưới ách áp bức cai trị hà khắc của những tên cai ngục. Thật lòng mà nói, bản thân tôi ngộ nạn hay gặp hoàn cảnh khổ tôi có thể chịu đựng được, nhưng chứng kiến nhiều người khác đau khổ tôi muốn tìm phương cách để cứu khổ ban vui chứ không thể ngồi yên được. Mặc dù biết thương người nhiều khi cũng “Chuốc vạ vào thân” hay “chuốc oán mua thù”. Vả lại, muốn tiến hành cứu người là việc rất khó khăn gian khổ và còn có thể nguy đến tính mạng của mình chứ không dễ dàng gì. Tuy nhiên một khi chí đã quyết nên phải ra tay, từ đó tôi kết hợp với một số anh em thân quen như bác sĩ Nguyễn Kim Long, chuyên khoa giải phẫu hệ tiêu hóa đang làm tại bệnh xá của trại, anh Nguyễn Đình Văn Long làm trật tự của trại và Trần Văn Long một thanh niên hiền lành đạo đức, bản lĩnh, gan dạ và trung thành. Cùng một số anh em trong trại đứng ra tổ chức cướp trại giải thoát tù nhân, chúng tôi dự định giải cứu đem đi 700 người trong số hơn 1000 người của trại. Tất cả sẽ cùng nhau hoạt động trong rừng và hợp tác đấu tranh. Nhưng sự việc bại lộ cho nên chúng tôi phải bị kỷ luật, cùm quyện tay chân ngày đêm hơn 3 năm.
Trong thời gian điều tra tôi là người bị đánh đập rất dã man, tôi đã từng bị đánh tập thể gồm có các tên cán bộ an ninh của trung tâm như tên: Tri, Thi và Lâm. Họ đánh tôi bằng báng súng, bằng tay chân và 100 roi điện. Tên Tri gốc là giáo viên ở Bình Định trông vẻ mặt bên ngoài rất đạo mạo, tưởng như trí thức hiền lành, ăn nói mềm mỏng là người đánh tôi nhiều nhất. Tôi được biết tên Tri nay đã chuyển về quê làm công an tại Bình Định, nghe nói tên Lâm hiện giờ đã trở thành Giám thị trưởng trại Xuân Phước? Nếu còn đương chức thì cấp bậc của các tên đao phủ nầy ít nhất là từ trung tá trở lên.
Tôi còn nhớ như in, có một buổi điều tra khai thác để bắt thêm người, cả ba tên đao phủ ấy tấn công tôi bằng tay chân tới tấp vào thân thể, đầu, mặt. Buộc lòng tôi phải quay lưng vào vách lá của các căn nhà được xây cất liền nhau để có thể chống đỡ chỉ một phía trước mặt. Không ngờ phía vách lá sau lưng tôi có một tên cán bộ vũ trang đang trực sẵn, hắn đã dùng họng súng dài, thúc mạnh vào lưng trúng ngay lá phổi làm tôi bị trọng thương té ngất xỉu, máu tuôn ướt đẫm cả áo quần.
Sau khi tỉnh dậy, những tên hung thần nầy không cho tôi thay quần áo, tôi đành mặc áo dính máu luôn cho đến khi rách nát. Hậu quả, vết thương lá phổi của tôi đến giờ này cũng còn dây dưa chưa dứt hẳn, nó thường đau buốt và ho liên tục mỗi khi trái gió trở trời. Ngoài ra chính tên Tri đã trực tiếp đánh tôi 99 roi điện vì đếm lộn một roi, Tên trí thức lưu manh ác độc nầy dùng dây điện có ruột bằng đồng rất to khi đánh đầu dây thường quất vào hông, nách nơi chỗ hiểm yếu của thân thể. Đến khi kết thúc điều tra vụ án trốn trại các tên nầy quy kết tôi tổ chức “chống phá trại giam”.
Viện kiểm sát tối cao làm việc lần cuối, tòa án tối cao chỉ thị tòa án lưu động tỉnh Phú Khánh mở phiên tòa công khai xét xử tại trại.
Trước khi xử án tôi có làm việc với ông bào chữa viên nhân dân, là một luật sư của chế độ cũ được lưu dụng lại. Trong buổi làm việc ông ta nói với tôi:
"Nếu anh bị án tử hình thì trước khi thi hành án sẽ cho gia đình, thân nhân gặp mặt lần cuối và bị kết án tử hình thì trước hết anh được quyền làm đơn xin tha tội chết trong vòng 15 ngày”. Ông còn nhã ý hỏi địa chỉ gia đình tôi để thông báo trường hợp hiện tại của tôi. Sau khi làm việc hơn ba tháng, Họ mở phòng kỷ luật cho chúng tôi ra sân tắm nắng được một tuần lễ. Sau đó cấp cho mỗi người một bộ đồ mới, để sáng hôm sau ra tòa xét xử. Phiên tòa lưu động khai mạc tôi thấy có sự tham dự của hàng trăm cán bộ, các đội trưởng và các ban trật tự của ba phân trại. Bản án tuyên phạt là "chung thân” đúng vào năm 1987, thế là cuộc đời tôi phải triền miên thêm một bản án nữa. Sau phiên tòa tôi có làm một bài thơ để kỷ niệm như sau:
TU TÙ...!
Thêm dấu chữ Tu biến chữ Tù
Chung thân hai án ở thiên thu
Tay còng, chân quyện nơi u tối
Cửa sắt, tường cao chốn mịt mù
Thân thể hình hài trông yếu kém
Tinh thần, trí tuệ sáng trăng thu
Thiên đàng, địa ngục phân hai nẻo
Nửa kiếp thầy tu nữa kiếp tù...!
Nửa kiếp Thầy tu nửa kiếp tù
Thiền môn giã biệt bước chân du
Từ bi trí tuệ tình thương gọi
Bác ái nghĩa nhân xóa hận thù...
Y chiến ngày đêm luôn mặc giữ
Nâu sòng kinh kệ gác công phu
Nước non đáp trả tròn xong nợ
Tín, Hạnh, Nguyện, thành vẹn kiếp tu...!
Sau khi ra khỏi biệt giam, ông Huỳnh Quang Tiên cựu trung tá, kỷ sư tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn công binh tỉnh Bạc Liêu, người cùng chuyến viễn hành lưu đày có tặng tôi một bài thơ như sau:
ĐỜI ĐẠO VẸN TOÀN
Những tưởng nâu sồng biệt thế gian
Nào hay con tạo khéo đa đoan
Quê hương nặng nợ thân tù vướng
Đạo pháp thâm tình xác nặng mang...
Giữa chốn cùm gông luôn vững dạ
Trong cơn nước lửa vẫn bền gan
Tâm cao chí cả lòng son sắt...
Đạo pháp cang thường vẹn lưỡng gian.
(Huỳnh Quang Tiên Kính tặng)
Trong thời gian ở biệt giam tăm tối chỉ có ánh sáng đêm trăng lọt qua khe cửa, tôi cảm hứng một bài thơ như sau:
ÁNH TRĂNG NƠI BIỆT GIAM
Trăng vào khe cửa biệt giam
Âm u khám tối trăng vàng tìm ai?
Vô tình dạo bước rông dài
Người nằm trong đó huynh đài Thiện Minh...?
Mấy lời nhắn nhủ tâm tình
Hỏi xem tu sĩ còn bình thi không?
Đáp rằng bút trận xung phong
Cũng là pháp khí tấn công gian tà...!
Đây là bản nhạc của Nguyễn Hồng Phúc người bạn tù tại Bạc Liêu cùng chuyến viễn hành lưu đày nơi Xuân Phước, Phú Khánh thân tặng tựa đề “Chiếc áo nâu” (bản nhạc nầy trên 20 năm)
CHIẾC ÁO NÂU...!
Viết cho anh bài ca nỗi lòng, từ nơi u tối nhớ thương người đi, từ nơi nước mắt khóc cho người mất, khóc cho tình nước khóc cho tình người, từ nơi u tối dẫn bước ra đi, đi tìm sao sáng tình yêu nhân loại…
Viết cho anh tình yêu của người, từ nơi u tối đắp xây niềm mơ, thời gian đốt cháy tuổi thơ mầm sống, bước đi ngàn bước cỏ hoa chạy dài, từ nơi u tối dẫn bước ra đi, đi tìm sao sáng tình yêu nhân loại...
Chiếc áo nâu ngày ấy, áo trắng theo thời gian, xóa đi ngày tháng tuổi thơ muộn phiền, nơi cửa trang nghiêm, con đường tôn giáo dẫn dắt anh đi!
Dĩ vãng vương tầm mắt, nỗi nhớ trong niềm tin, cách xa trần thế tuổi thơ miệt mài, mưa bão quanh anh, con đường đi tới bông lúa ươm vàng...
Viết cho anh bài ca bất tận, từ nơi u tối chúng ta gặp nhau, từ nơi cõi chết hát cho cuộc sống, hát quên ngày tháng hát vơi đọa đày, từ nơi khám tối gông xích điêu linh, chờ mùa xuân đến hoa tươi đêm ngày...!
Nguyễn Hồng Phúc, Bạc Liêu thân tặng.
(Tôi không nhớ để ghi lại dòng nhạc, chỉ nhớ lời vì nhiều năm dài có khi mai một, thiếu sót nhưng mục đích là kỷ niệm những bạn tù cùng đồng hội đồng thuyền).
3. NHỚ ƠN SINH THÀNH NHÂN LỄ VU LAN
Tôi không thể bày tỏ hết nỗi tâm trạng day dứt suy tư trong lòng mình khi mùa Báo Hiếu Lễ Vu Lan hằng năm lại về. Nhân dịp Trung Nguyên Rằm tháng bảy, tôi không biết làm thế nào để đền đáp được thâm ân của đấng sinh thành. Nhớ lời Chư Phật, Chư Tổ đã dạy Đức Đại Hiếu Mục Kiền Liên xưa kia Ngài là bậc Thánh Tăng mà còn phải cầu thỉnh tứ chúng, nhờ đức chúng như hải chú nguyện cho mẹ, còn bản thân tôi nghiệp dầy, huệ cạn, chướng sâu chỉ cố công tu hành khi nhớ đến câu “Nhất nhơn hành đạo cửu huyền thăng” mong sao tâm nguyện này thành tựu để mẹ cha được thọ hưởng những hồng ân trong cảnh an vui giải thoát.
Những năm tháng lao tù tôi có viết một bài thơ nhân mùa Đông nhớ mẹ, xin tặng những ai cùng đồng tù, đồng cảnh ngộ để hoài niệm một thời lao lý mỗi khi ngồi trong song sắt nhớ đến mẹ hiền.
MÙA ĐÔNG NHỚ MẸ NƠI CHỐN LAO TÙ
Mùa đông gió lạnh thoi đưa
Cô đơn nối gót từ xưa gọi về...
Tình phụ mẫu thiết tha nồng đượm
Nghĩa cù lao thắm nhuộm lòng con
Mẹ già thân thể héo hon...
Bởi con lao lý mỏi mòn đợi trông...!
Xuân sắp đến cõi lòng thổn thức
Nỗi bâng khuâng chất ngất niềm thương
Én bay báo hiệu mùa xuân
Nay con là kẻ viễn phương mịt mù..!
Trong khám lạnh lao tù thống thiết
Bao năm dài khôn xiết biệt xa
Từ ly lệ chảy chan hòa
Đau lòng cam chịu cách xa gia đình...!
Sao tỏ hết tâm tình phiền lụy
Chỉ một mình thầm nghĩ mông lung
Dường như dọi thấu hư cung
Để rồi tan tác não nùng biệt ly...!
Nhìn theo gió tư duy chuyện cũ
Mà lòng con ấp ủ vấn vương
Nhớ nhà nhớ lẫn con đường
Nhớ về quê cũ tình thương đậm đà...!
Nhớ em dại mẹ già năm tháng
Nỗi u buồn nào vắng trên
Nắng mưa sương tuyết kể chi
Mẹ già bạc tóc bởi vì nhớ con...!
Lại đôi tháng lo toan tiền bạc
Đến thăm nuôi giây lát gặp nhau
Thời gian ngắn ngủi biết bao
Lại rồi từ tạ làm sao bây giờ...!
Trong giấc ngủ con mơ trở lại
Mái nhà xưa em vẫy tay theo
Em thơ chạy đến ôm đeo
Mẹ thì vỗ má con yêu mẹ về...!
Khi chợt tỉnh cơn mê đã mất
Vậy mà con tưởng thật mẹ ơi!
Giấc mơ nhớ mãi vậy thôi...
Sáng ngồi tư lự luận vơi mộng lành...!
Gió thổi lạnh qua mành phảng phất
Con ngồi trong song sắt nhìn ra
Trời đưa mây trắng xa xa
Núi cao vời vợi nhớ nhà nhiều hơn...!
Én bay liệng đua vờn trước ngõ
Nhìn xem hoa đua nở ngoài sân
Người người chuẩn bị đón xuân
Còn con thì lại giam thân chốn tù...!
Trại Xuân Phước mịt mù xa cách
Rừng núi đồi làm vách vây quanh
Miền Trung Phú Khánh địa danh
Trường Sơn một bức khung thành chắn ngang...!
Vùng u tịch cư dân ít thấy
Chỉ đồng khô cỏ cháy hoang vu
Rừng thiêng nước độc âm u
Mưa dầu nắng lửa thân tù khổ sai...!
Với bản án miệt mài vất vả
Bao năm dài ròng rã trôi qua
Xuân này còn phải cách xa
Con xin hẹn lại vậy là xuân sau...!
Lòng hiện tại biết bao mơ ước
Đốt nén hương khấn trước tổ tiên
Con xin tạ lỗi trách phiền
Bởi vì lao lý con hiền nào quên...!
Thôi đành chịu lênh đênh khám lạnh
Xuân năm này đồng cảnh chung vui
Vui xuân nhưng dạ ngậm ngùi
Bởi cùng chung phận ai vui được nào...!
Thi thơ bút rạt rào khôn xiết
Kỷ niệm xuân ngày tết đìu hiu
Xuân về nhớ mẹ rất nhiều
Chúc cầu sức khoẻ mẹ yêu thọ trường...!
4. PHÒNG BIỆT GIAM TRẠI TÙ XUÂN PHƯỚC, NƠI HỘI NGỘ ĐỦ MÀU SẮC TÔN GIÁO
N
ăm 1984 tôi bị bắt giam ba năm nơi kỷ luật cho đến năm 1987 tôi bị truy tố về tội chống phá trại giam mà họ kết tội là “Âm mưu tổ chức cướp trại giải thoát tù nhân”. Nhờ vậy, khi vào khu biệt giam tôi mới có dịp ở chung trong cùm với quý vị chức sắc các tôn giáo bạn như:
Ông Phan Đức Trọng lúc ấy 72 tuổi là Giáo hội trưởng giáo hội “Hòa bình chung sống” ở Tây Ninh, ông là con nuôi của Trung tướng Trần Quang Vinh Tổng Tư lệnh quân đội Cao Đài.
Ông Trần Văn Nhành, một tín đồ thuần thành của đạo Hòa Hảo thuần tuý.
Linh Mục Nguyễn Văn Vàng dòng Chúa cứu thế.
Linh Mục Nguyễn Quang Minh nhà thờ Vinh Sơn.
Linh Mục Nguyễn Luân, Phan Rang.
Linh Mục Nguyễn Tấn Chức, v.v…
Trong lúc ấy mọi người chúng tôi quần áo bị mục nát, quần đùi không còn đủ để che thân. Linh Mục Vàng bị ghẻ mủ khắp thân thể, ngoại trừ trên mặt thì không có, ghẻ mủ dầy như dề cơm cháy khét đen, còn Linh Mục Nguyễn Quang Minh thì bị đánh trọng thương, đánh ra máu miệng, cả hậu môn chỉ vì đem vào trại vài chiếc bánh “Thánh” để rồi qua đời sau đó mấy ngày. Riêng Linh Mục Nguyễn Luân bị bệnh phổi nặng (ung thư phổi). Do nhiều năm trong kỷ luật ngủ không mùng, không chiếu, bản thân tôi bị lao hạch và trong phổi có nước. Mọi người sống trong không khí ô trược vì chiếc hũ vệ sinh để trực tiếp ngày đêm trong phòng, tiểu tiện tại chỗ, lâu lâu mới cho đi đổ một lần, để lâu sinh ra giòi, chân tôi bị quyện lâu ngày lở loét, tối đến giòi bò lên chỗ loét, tới sáng mới phát hiện ra…
Theo quy định của trại thì mỗi ngày cho đi đổ hũ vệ sinh một lần, mỗi người được phát 2 lít nước đun sôi để uống. Nếu gặp mấy anh trật tự hoặc những tên cán bộ trực trại độc ác thì 5-7 ngày mới cho đi đổ hũ vệ sinh một lần và nước mỗi ngày họ cấp phát 4 người, chỉ có 4 lon Guigoz. Tiêu chuẩn cơm mỗi bữa ăn mỗi người chỉ hơn nữa chén kèm theo 3 lát khoai mì loại H34 (loại mì công nghiệp Ấn Độ) chan ngập nước muối đậm đặc, nước muối nhiễu xuống nền gạch đóng trắng bọt muối, trong kỷ luật hoàn toàn thiếu chất rau tươi mọi người đều bị bệnh sưng thũng, tê bại, mờ mắt, ghẻ lở, lao phổi, v.v… Mỗi lần tôi đi ra ngoài đổ hũ vệ sinh, tôi nhanh tay với hái một nắm cỏ mầng trầu hoặc loại cỏ nước mặn, loại cỏ tạp cho bò ăn. Cỏ còn có mùi phân người, tôi lén đem vào phòng lấy nước rửa sơ rồi chia nhau mỗi người một ít, để nhai ăn cho đỡ thèm rau tươi, chúng tôi ăn cỏ mà cảm thấy nó ngọt vô cùng, Nếu bị phát hiện họ không cho đem vào phòng, tôi tìm cách trả lời “đem cỏ vào để trên mặt hũ vệ sinh để đi tiêu cho nước khỏi văng dơ”.
Phòng chúng tôi thỉnh thoảng vài tháng có một anh thường phạm bị kỷ luật gửi vào cùm chân 7 ngày, chiếc quần đùi của anh bạn thường phạm này qua 7 hôm tiêu tiểu tại chỗ đã bốc mùi hôi. Thế mà quý Cha, quý Thầy ai cũng thòm thèm muốn hỏi xin mà lòng tự trọng nên im lặng. Đúng 7 ngày, sau khi mãn kỷ luật anh thường phạm này ném chiếc quần đùi dơ cho bất cứ ai, thì người ấy mừng rỡ như nhận được món quà vô giá. Chúng tôi ở chung nhau được vài tháng rồi bị chuyển đổi liên tục, họ tách riêng mỗi người ở mỗi phòng khác nhau. Một hôm Linh Mục Nguyễn Quang Minh lên tiếng yêu cầu mỗi người làm một vài câu thơ, họa lại nhau cho vui để làm kỷ niệm.
THI HỌA KỶ NIỆM CỦA QÚY LINH MỤC VÀ TÔI TRONG XÀ LIM BIỆT GIAM
Để giết thì giờ cũng như để kỷ niệm những ngày tháng đọa đày nơi biệt giam, Linh Mục Minh khởi xướng trước mấy vần thơ như sau:
Vô tình hạnh ngộ gặp nhau đây
Giữa khoảng nhà lao chốn ngục đầy
Cám cảnh thâm tình nên tri kỷ
Cùng nhau chia sẻ nỗi đau này...
Đến lượt tôi họa tiếp:
Đau này không phải chỉ riêng ta
Mà của toàn dân khắp mọi nhà
Thông cảm sẻ chia người mỗi chút
Đồng cam cộng khổ mới chan hoà...!
Sau đó tới phiên Linh Mục Vàng:
Chan hoà nước mắt của muôn dân
Đời bị rã tan Đạo xoá dần
Tu sĩ lên đường tìm đại nghĩa
Quyết mong diệt sạch lũ vô thần...!
Cuối cùng tới Linh Mục Nguyễn Luân:
Vô thần diệt sạch khó gì đâu
Đoàn kết liên tôn cứu họa sầu
Đập rắn đập mình không thể chết
Mà ta phải đập cả luôn đầu...!
Sau đó anh em chúng tôi mới thắc mắc với Linh Mục Luân:
- “Tại sao lại đập rắn đập mình không chết mà lại đập đầu?”
Linh Mục Luân giải thích:
- “Miền Nam trước đây là đầu Lân, còn miền Bắc Cộng Sản là đầu rắn. Đầu Lân nếu bị đập thì sẽ có đầu khác nhảy vào thay thế để múa. Mỗi khi Lân múa cần phải có đuôi mới múa được; cái đuôi là cái mình. Nếu múa Lân có đuôi mà có thêm được ông Địa cầm quạt phe phẩy hoặc có thêm ông Tề Thiên cầm thước bảng đi quyền, đặc biệt là có trống, pháo hay được chủ nhà treo tiền thưởng thì Lân múa càng hay, chứ nếu đầu Lân mà không có đuôi thì Lân không thể múa được. Miền Nam trước đây cũng vậy khi dân chúng, binh lính, sĩ quan hoảng loạn, tức cái đuôi không còn nữa thì Tổng Thống (Cái đầu) cũng dông luôn. Còn đầu Rắn rất độc tài, nọc độc từ trong cái miệng rắn, đập cái mình không chết mà phải đập đầu mới chết vì loại rắn độc có rất nhiều đầu, rắn độc của Việt Nam từ 11 đầu trở lên thường thì số lẽ và luôn có kèm những cái đầu dự khuyết để phòng khi cần thay đổi hay có cờ rũ sẽ lên thay ngay.
Còn ở đây tôi muốn nói cái đầu rắn vĩ đại của Liên Xô kìa, mỗi khi cái đầu này bị đập tức sẽ bị cáo chung trên toàn cầu thì tất cả các con rắn con ở Đông Âu tức là cái mình cũng chết theo luôn, và rồi các con rắn con ở khắp nơi trên thế giới sẽ bị phá sản chắc chắn bị khủng hoảng đường lối. Quý vị hãy xem rồi đây nó sẽ xảy ra như thế ấy”.
Trong cuộc sống tại nhà tù, tôi biết được gần như Linh Mục Luân ít được ở chung với tập thể, bởi Ngài ở biệt giam dài hạn nên chúng tôi đặt cho cái tên gọi là uỷ viên thường trực phòng kỷ luật vô hạn định. Linh Mục Luân rất cao và to trông giống như một người ngoại quốc ở phương Tây, tính tình điềm đạm, vui vẻ, ít nói và rất chậm chạp; chậm chạp chưa từng thấy. Một hôm, tôi hỏi Linh Mục Luân:
- “Thưa Cha, khi chưa bị bắt lúc còn ở bên ngoài, Cha tham gia vào tổ chức chính trị nào vậy?”
Linh Mục Luân mĩm cười hiền lành rồi từ từ đáp:
- "Ồ! Tôi tham gia vào tổ chức lực lượng phản ứng nhanh”.
Tôi bật cười hỏi tiếp:
- “Cha chậm chạp còn hơn ông Rùa sao lại tham gia vào lực lượng phản ứng nhanh được”.
Linh Mục Luân đáp:
- "Ồ! Vậy mà khi phản ứng thì nhanh lắm chứ bộ”.
Những tên giám ngục thấy giam hãm Ngài nơi kỷ luật quá lâu nên mời Ngài lên làm việc. Họ chỉ cần yêu cầu Linh Mục viết tiêu đề là:
“Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, Độc lập - Tư do - Hạnh phúc”, và ký tên vào thôi! thì sẽ cho Ngài ra khỏi kỷ luật ngay. Thế nhưng Linh Mục Luân lúc nào cũng viết như sau:
Cộng Hoà Xã Hội chủ Nghĩa Việt Nam
Không độc lập - Không tự do - Không hạnh phúc
Chính vì thế, Linh Mục Luân phải ở kỷ luật cho đến ngày qua đời. Linh Mục Luân thường nói với tôi rằng:
- “Thầy Thiện Minh ơi! Mình phải viết đúng sự thật, chứ không thể viết khác được, nếu viết khác thì lương tâm sẽ hổ thẹn lắm…”
Tôi và Linh Mục Luân dường như có duyên với nhau cho nên hai huynh đệ thường bị kỷ luật ở hai phòng cạnh nhau. Sức khoẻ của Linh Mục càng ngày càng sa sút, tiếng nói yếu dần nhưng Ngài thường nói “Uy vũ bất năng khuất” đúng vậy! Tinh thần Ngài lúc nào cũng dũng mãnh, hăng say, trung kiên và lập trường không bao giờ thay đổi. Hai phòng chúng tôi ở kế bên nhau nên hàng ngày chúng tôi gọi nhau để nói chuyện, tôi gọi Linh Mục Luân bằng "Li Ma” còn Linh Mục Luân gọi tôi là "Mạnh Mẽ". Chữ Li Ma lấy chữ đầu bằng chữ “L” tức “Luân”, còn Mạnh Mẽ chữ đầu bằng “M” tức “Minh” (Thích Thiện Minh).
Trong những ngày bệnh phổi tái phát (bệnh ung thư), mặc dầu sức khoẻ Ngài quá nguy nan vì thuốc men khan hiếm, gia đình thân nhân có đến thăm nhưng không cho gặp mặt và cũng không cho nhận quà. Nhưng Linh Mục Luân vẫn cố gắng đặt một bài thơ tặng tôi để làm kỷ niệm. Tôi cố học thuộc lòng bài thơ. Đó cũng là lần cuối đời của Linh Mục tại nhà tù Xuân Phước mà chúng tôi không còn gặp mặt nhau nữa… Tôi luôn nhớ mãi và khắc sâu hình bóng một người bạn tinh thần, bạn đồng tù, đồng cảm với bài thơ sau đây:
BÀI THƠ LINH MỤC LUÂN, PHAN RANG TẶNG TÔI TRƯỚC KHI QUA ĐỜI
Trước kia không biết Thầy Minh
Đến đây không hẹn mà mình gặp nhau
Chúa Trời, Đức Phật trên cao
Còn ta trong ngục kết giao nghĩa tình...
Thề nguyền một dạ tử sinh
Lo cho Dân Tộc, thanh bình Quốc gia
Tinh thần tôn giáo hài hòa
Một trời, một đất xem là của chung...
Bởi vì chân lý tột cùng
Mình tìm chân lý đi chung một đường
Mấy lời nhắn nhủ yêu thương
Tặng Thầy Minh nhớ tận tường ý Luân...!
CỤ PHAN ĐỨC TRỌNG, CAO ĐÀI “CHUNG SỐNG HÒA BÌNH” VỚI 40 NĂM TÙ CỦA HAI CHẾ ĐỘ.
Những tháng ngày trong kỷ luật, tôi còn ghi nhận cụ Phan Đức Trọng người đạo Cao Đài là Hội trưởng giáo hội Hòa bình chung sống, một người miệt mài tranh đấu không mệt mỏi cho tự do, dân chủ, nhân quyền và tự do tôn giáo. Ngay ở trại Xuân phước vì tha nhân ông đứng lên tranh đấu đòi hỏi quyền sống cho tù nhân chứ bản thân cụ không đến nổi nào. Thời kỳ chính quyền Ngô Đình Diệm Cụ ở tù hết mấy lần, nay ở tù chế độ Cộng Sản cũng mấy lần, tổng cộng gần 40 năm tù, tuổi 85 mà cụ chỉ được 1 người con gái duy nhất tên Nguyệt. Tôi còn nhớ trong những năm trại Xuân Phước có những quy định gắt gao, quà thăm nuôi của gia đình mang đến hay bưu phẩm gửi qua đường bưu điện, nếu có những món như : Bún, mì, bột, gạo nếp, các loại gia vị hành, tiêu, tỏi, v.v… khi vào cổng nhà giam đều bị cán bộ trực trại tịch thu. Họ cho rằng nếu để người tù ăn uống có nhiều chất kích thích và nhiều chất dinh dưỡng thì sức khoẻ và tinh thần sẽ sung mãn ắt dễ sinh ra chống đối. Những thực phẩm nầy họ cấm không cho tù nhân được nhận rồi mấy tên trực trại tịch thu đem về nấu ăn ngon lành. Những hành vi nầy là thật trơ trẽn, lố bịch và vô liêm sĩ hết chỗ nói. Chứng kiến trước sự bất công, Cụ đã viết đơn đấu tranh đòi hỏi yêu sách, đòi quyền sống cho tù nhân, đòi cải thiện chế độ lao tù. Cụ sẵn sàng xin thọ nhận án tử hình thay để cho anh em được sống.
Thời điểm lúc bấy giờ, ở trại thung lũng tử thần này người tù nào có gia đình tương đối ổn định đi thăm nuôi cũng chỉ nhận được vài ký khô, đường, ít thịt chỉ đủ tiêu dùng hơn nửa tháng hoặc được mươi bữa là cùng. Đường đi thăm nuôi rất xa xôi vất vả, cho dù gia đình có khá giả đi nữa cũng khoảng ba bốn tháng mới đến thăm một lần, có những người ở tù suốt 15 năm nhưng chưa bao giờ có thân nhân thăm viếng. Vào ngày Tết, hay ngày quy định cho gia đình đến thăm nuôi, những người này mong được gọi đến tên mình dù chỉ một lần thôi mà cũng không bao giờ có được.
Vào những ngày này nhìn thấy mọi người xôn xao đi thăm nuôi gặp mặt thân nhân, các anh em thiếu thăm nuôi đi ra trước mái hiên ngồi thẩn thơ mà buồn cho thân phận, có người giăng mùng nằm ngủ cho quên đi cuộc đời bất hạnh của mình. Sự sống quá khó khăn, lại còn bị sức ép của những tên giám ngục, cho nên tạo cho con người sinh ra tánh ích kỷ với nhau. Nếu chia sẻ cho người khác thì ắt mình sẽ bị thiếu đói, chính vì “những điều trông thấy” những thảm trạng trên mà ông Phan Đức Trọng làm đơn đấu tranh đòi tự do, đòi quyền sống, đòi cải thiện chế độ lao tù, đòi thay đổi chính sách thăm nuôi, quà cáp, v.v… Chính vì vậy, ông đã bị biệt giam còng tay chân suốt gần 5 năm nơi kỷ luật… Mãi cho đến khi ông giám thị Nguyễn Văn Bàng lên thay thế thì việc nhận quà thăm nuôi mới có sự thay đổi đôi chút. Tuy nhiên ông giám thị mới này vẫn có sự bó buộc khác hơn theo một hình thức mới hơn, cưỡng bức lao động nặng hơn, lưu manh hơn, hỗn xược hơn! Ông Bàng cũng là loại “Hung thần” tàn ác, hút máu biết bao người tù. Nhớ lại biết bao nấm mồ hoang mả lạnh mà cám cảnh thương tâm. Tôi không bao giờ quên được sự hung hãn, bạo tàn mất tính người của các ông hung thần hắc sát tại trại Xuân Phước. Dẫu biết rằng họ cũng là đồng bào Việt Nam ruột thịt, nhưng loại ruột thừa có nên cắt bỏ hay không? Bởi:
Cùng cắt rốn chôn rau tổ quốc
Giống Rồng Tiên mảnh đất của chung
Nhưng ruột thừa... dùng biện pháp cuối cùng
Đành phải cắt kẻo nhiễm trùng nguy hiểm...!
E con bệnh sẽ truyền lây nhiễm
Và tử thần đến kiểm gọi danh
Đau lòng thay chớ ai nỡ cam đành
Để thân thể bình sanh và tráng kiện...!
Đành ly cách hai đường hai chiến tuyến
Đường anh đi tôi thực hiện đường tôi
Và nhân đạo khi thức tỉnh quay hồi
Anh trở lại với khúc nôi dân tộc...!
Anh cười vui khi toàn dân bật khóc
Bởi quê hương tang tóc chính vì anh
Sự thành công và thất bại sẵn dành
Đó là qui luật đấu tranh trong xã hội...!
Chim có tổ người có tông cây có cội
Nước có nguồn lửa khói có người khêu
Khổ nhân dân ai tác giả xin nêu
Ai đạo diễn toàn dân đều thấy rõ...!
Là nhà tu, tôi phải vâng lời Phật dạy “Dĩ Đức Báo Oán” đó là tôn chỉ cao đẹp nhất của Đạo Phật vậy!
Trên đây là đủ màu sắc tôn giáo đã từng chia ngọt sẻ bùi, ngậm cay nuốt đắng, chịu nhiều sự lăng nhục nơi biệt giam kỷ luật của thung lũng tử thần. Còn phải kể tới những gặp gỡ hiểu biết nhau trong tập thể của những ngày cưỡng bức lao động khổ sai, bị đày đọa hằng ngày dưới cảnh mưa dầu nắng lửa thì rất là nhiều vị. Thế nhưng hoàn cảnh không phải lúc nào cũng thuận tiện dễ dàng cho phép sự trao đổi tâm tình, ngoại trừ cùng ở chung một buồng giam hay cùng lao động chung trong một đội chẳng hạn như bên Thiên Chúa giáo còn có:
Linh Mục “Khẩu” ở Ban Mê Thuột
Linh Mục “Nguyện” người rất đức độ, luôn thể hiện sự Bác Ái với tha nhân
Linh Mục “Hiếu” Dòng Đồng Công
Linh Mục “Phạm Minh Trí”, Dòng Đồng Công.
Thầy Nguyễn Viết Huân Dòng Đồng Công và nhiều vị Linh Mục….đã quên tên.
Các vị bên Phật giáo như:
Thượng Tọa Thích Thiện Tấn (Huế)
Thượng Toạ Thích Thiện Tánh (Huế)
Thượng Tọa Thích Tâm Căn (Phan Thiết)
Thượng Tọa Thích Phước Viên (Huế)
Bản thân tôi ít nhiều cũng có sự giúp đỡ đùm bọc, yêu thương của Chư Huynh Đệ, người mà tôi thường trao đổi tâm sự rất thân tình là Thượng Tọa Thích Phước Viên. Thượng Tọa là người khiêm tốn, hòa nhã, luôn gìn giữ tư cách phẩm hạnh của kẻ xuất gia cho dù có gặp nhiều chướng duyên trên đường hành hóa…. Thượng Tọa rất sâu sắc tế nhị trong giao tiếp với mọi người. Rất tiếc tôi bị chuyển về trại giam Đồng Nai nên để lại cho nhau những niềm lưu luyến. Sau khi trả tự do huynh đệ chúng tôi có dịp gặp lại đôi lần ở Giáo Hội Trung ương, bởi cùng sự nghiệp “Thượng hoằng Hạ hóa” của Sứ giả Như Lai mà huynh đệ chúng tôi cùng chung một Bổn nguyện.
5. ĐỨA EM TRAI TÊN HUỲNH HỮU NHIỀU THỰC HIỆN LỜI TRĂN TRỐI CUỐI CÙNG CỦA MẸ TÔI
T
rên đường đi thăm hơn ngàn cây số bị đánh cướp trên tàu hỏa, khi đến trại Ban giám thị không cho gặp mặt và cũng chẳng cho tôi nhận quà:
Là một nhà tu, tôi ý thức bản thân mình phải mang nặng những ân sâu theo Qui Sơn Cảnh sách: “Phàm người xuất gia là cất bước đến chân trời cao rộng, tâm hình khác tục, nối thạnh giống thánh, hàng phục ma quân, nhằm đền đáp bốn ân, cứu giúp ba cõi”. Ân đất nước, ân phụ mẫu (ân sư trưởng), ân Tam bảo, ân Đàn na tín thí (đồng bào). Những ân trọng này suốt đời tôi không sao đền trả được, chưa nói đến tình huynh đệ anh chị em ruột thịt đã khổ lòng quan tâm lo lắng, san sẻ lặn lội thăm nuôi tôi trong suốt 26 năm tù. Những ngày cuối đời trong cơn hấp hối trên giường bệnh, mẹ tôi trăn trối lại với người em bên cạnh tên Huỳnh Hữu Nhiều: “Con phải hết lòng lo lắng, thăm nuôi anh con trong những ngày tháng tù đày xa xứ vì chắc mẹ không thể chờ đợi thêm được nữa… mẹ có chết đi thì linh hồn mẹ sẽ theo phò hộ anh con bình an sớm được quay về. Nếu sau nầy anh con được trở về, thì con nói lại rằng mẹ luôn thương yêu nhung nhớ cho đến hơi thở sau cùng khúc ruột của mẹ và anh con hãy gìn giữ đạo tâm cho dù bất cứ hoàn cảnh nào".
Em tôi khắc cốt ghi tâm lời mẹ dạy và hứa trước mặt để mẹ được yên lòng, từ đó em cố gắng làm ăn để có tiền đi từ Bạc Liêu đến tỉnh Phú Khánh thăm nuôi tôi 4-5 lần nhưng duy nhất chỉ gặp được một lần 15 phút. Lần đầu tiên em tôi đi thăm nuôi, trên đoạn đường dài hơn nghìn cây số, em phải dành dụm gần ba tháng, chạy xe đạp ôm mới có đủ tiền đi xe và mua quà. Đây cũng là chuyến đi lần đầu của em trên tàu hỏa, khi xe chạy tới tỉnh Phan Rang, Phan Rí thì em tôi bị đánh cướp trên xe. Một bọn 4-5 tên khoảng chừng trên 20 tuổi, trông dáng vẻ hùng hổ, tay chân thô kệch, mặt mày hung tợn, cặp mắt láo liên, hai tên trong bọn ấy đến bên em tôi, vừa nói vừa chìa 2 lưỡi lê sáng chói chĩa thẳng vào hông, chúng bảo em tôi phải đưa hết tiền bạc và đồ đạc mang theo đường cho bọn chúng, thì mới an toàn tính mạng.
Em tôi trả lời:
- ” Xin các anh thông cảm cho, đây là quà đi thăm nuôi người tù đang cải tạo. Tôi có một người anh là thầy tu mang tội chính trị, ở tù gần 20 mươi năm rồi, đây toàn là thức ăn chay xin các anh thương dùm”.
Nghe vậy, một trong số bọn chúng trả lời có vẻ dịu giọng một chút:
- “Nếu là đồ thăm nuôi người tù đang cải tạo, thì chúng tôi không lấy, nhưng chúng tôi chỉ xin hết tiền bạc và quần áo mang theo đường của riêng anh thôi".
Em tôi thiết tha nài xin:
- "Nếu các anh lấy hết thì làm sao tôi có đủ tiền đi xe về Bạc Liêu.”
Mặc dầu em tôi bày tỏ cạn lời nhưng bọn chúng vẫn trấn lột lấy tất cả, chỉ loại trừ quà thăm nuôi, chiếc đồng hồ điện tử rẻ tiền mà bọn chúng không thấy và một ít tiền còn lại có thể mua được vài ổ bánh mì. Thế là chuyến này em tôi không còn tiền đi tàu xe trở về Bạc Liêu nữa. Có điều đáng nói là em tôi còn gặp một chuyện cay đắng, ngậm ngùi đau khổ gấp trăm lần hơn là gặp bọn cướp trấn lột trên đường. Nghĩa là sau khi bị bọn cướp trấn lột, xe còn phải mất một ngày đường nữa mới tới tỉnh Phú Khánh, khi đến ngã ba Chí Thạnh huyện Đồng Xuân thì nơi đây có nhà nghỉ tạm của trại giam Xuân Phước, em tôi phải trú ngụ gần nửa tháng để chờ đợi, khi nào trại giam có đợt cho xe tải ra rước thì mới được vào trại. Đường đi khó khăn muốn đến trại cũng phải mất nửa buổi sáng, vì gần 40-50 cây số, đường ngập nước khó đi, thời gian nửa tháng ở đây, mỗi ngày em tôi phải ăn đói uống khát, vì sáng 1 gói mì chay và chiều 1 gói, lúc mang theo đi thăm chỉ có 1 thùng mì 30 gói, nên khi thăm nuôi không còn gói mì nào cả, bởi gia đình lúc ấy quá nghèo.
Khi đến trại giam, em tôi xuất trình đơn xin gặp mặt, có chữ ký của chính quyền địa phương xác nhận đầy đủ. Nhưng ban giám ngục đã từ chối không giải quyết cho gặp mặt và cũng từ chối không cho gởi quà thăm nuôi với lý do là “Tôi cải tạo rất xấu". Một tên cán bộ giáo dục nói với em tôi rằng:
- “Anh Huỳnh Văn Ba tức Thích Thiện Minh là tên rất ngoan cố cứng đầu, khó giáo dục nên không thể giải quyết cho thăm”.
Em tôi bật khóc nức nở, nài nỉ van xin chấp tay quỳ xuống lạy tên sĩ quan cán bộ giáo dục này và nói rằng:
- "Vì đường rất xa gia đình nghèo túng và thời gian quá lâu không có tiền đến thăm nuôi được cũng như gia đình nhận tin báo rằng anh tôi đã chết mấy năm rồi. Bất ngờ nay nhận được tin còn sống, nên đến thăm nuôi, nếu không cho gặp mặt, thì cũng mong quí ông cho anh tôi nhận ít quà”.
Nhưng họ vẫn kiên quyết không cho nhận. Em tôi lại nói:
- "Xin các ông lấy tình người mà mở tấm lòng nhân đạo”.
Tên cán bộ giáo dục nói:
- “Tôi trả lời với anh lần cuối, chúng tôi phải chuyên chính với kẻ thù và khoan hồng nhân đạo với những người thật tâm hối cải, chúng tôi chỉ đánh những kẻ chạy đi, chứ không đánh những kẻ chạy lại, ở đây chúng tôi làm việc theo nguyên tắc chứ không có nhân đạo hay tình người, tôi đã nói rồi tôi không giải quyết gì cả” – Nói xong tên giáo dục bỏ đi ra…
Cuối cùng em tôi đành phải quay về Bạc Liêu, với một chuyến đi về tâm trạng tột cùng đau khổ. Em tôi đem tất cả quà thăm biếu cho thân nhân của những người tù khác để khỏi mang về đường xa vất vả nặng nề… Trên đường về em tôi phải xin tài xế quá giang đi từng đoạn và nhờ sự giúp đỡ của quí bà con cô bác đi đường mới về đến Bạc Liêu. Khi về đến gia đình mẹ tôi hỏi… em tôi giấu mẹ, không dám nói thật vì mẹ đang bị bệnh khá nặng… nhưng rồi cũng không dám dối mẹ lâu… đành nói sự thật, hay tin này mẹ tôi đau buồn phát sinh bệnh nặng thêm và qua đời vào năm 1986. Xin nhắc lại, sau khi từ trại Cải tạo Cây Gừa chuyển đến trại Xuân Phước mẹ tôi nhiều lần đến gặp ban chỉ huy trại giam Cây Gừa hỏi thăm tôi, nhưng mấy tên chỉ huy thâm hiểm nầy lấp liếm không nói sự thật và hầu như công an có biết cũng không ai dám nói…
Sau đó gia đình tôi nhận được tin đồn là trong tù có một nhà tu tên “Minh” bị đánh chết thực ra đó là Linh Mục Nguyễn Quang Minh, hay tin nầy em trai tôi đã họa hình, lập bàn thờ cúng cơm hằng bữa, em mua một hũ chao, mỗi lần cúng gắp ra một ít cho có lễ đủ 3 năm sau khi tôi ra tòa xong. Cũng may nhờ vị luật sư thông báo về gia đình, các em mới nhận được tin tôi còn sống thì lư hương đã đầy ắp cả chân nhang. Sau nầy có dịp thăm gặp tại trại Xuân Lộc em tôi có mang tấm hình họa thờ đến cho tôi, đó là ảnh chụp lúc đang làm trụ trì tại chùa Vĩnh Bình. Bức ảnh nầy có kèm trong phần phụ lục đầu tiên của tập Hồi Ký này.
» Xem tiếp PHẦN 3
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét