THIÊN ĐƯỜNG ĐỎ

TRANG  QUYỀN DÂN                       
DĨ ĐỨC VI TIÊN - THỨ CHI DÂN CHỦ - DÂN QUYỀN TỐI THƯỢNG - NHIÊN HẬU PHÚ CƯỜNG
Việt Nam không có Nhân Quyền - Nên ta phải lấy Quyền Dân để đòi
GOD! PLEASE HELP US STOP THE INVASION OF CHINA AND END THE COMMUNIST DICTATORSHIPS OF VIETNAM
Tổ quốc lâm nguy, Việt cộng đè, Trung cẩu lấn - Kề vai sát cánh, đồng tâm chung sức cứu non sông
⇦«     »⇨

❏ Trước đăng ngày: 10/09/2011
❏ Tái đăng ngày: 24/11/2017

THIÊN ĐƯỜNG ĐỎ

Cựu Thiếu Úy CSQG/VNCH Lê Thị Xuân
Chuyển đăng: Trần Lê Lý

"Máu Trung Tá CSQG Nguyễn Văn Long tô thắm quê hương và Cảnh Sử. Tôi hân hạnh được đứng trong Lực lượng CSQG/VNCH." - (Cựu Thiếu Úy CSQG/VNCH Lê Thị Xuân)

T


ối ngày 28.6.1975 tôi bị di chuyển cùng chung với chồng từ Trường Trung Học Nguyễn Bá Tòng tại Sài Gòn đến Trại Suối máu được khoảng 1 tuần lại bị chuyển đến trại Thành Ông Năm, Hóc Môn do đoàn 500 cộng sản quản lý.

Trại chia làm hai khu: Nữ Sĩ Quan (SQ) Quân đội, và Nữ SQ/ CSQG. Chúng tôi bị chia thành từng B và phải chen lấn lẫn nhau trong một diện tích chỉ đủ để nằm nghiêng. Lúc nầy tôi mang thai cháu đầu lòng gần 7 tháng. Đây là thời gian thai nhi phát triển, nên thai phụ cần được nghỉ ngơi, thoải mái, tránh bị những áp lực và thai phụ cần phải được thực phẩm dinh duỡng vừa tinh khiết vừa đầy đủ. Nhưng với tôi thì hoàn toàn trái ngược. Ngoài môi trường sống quá thiếu vệ sinh, lại phải ngồi nghe học tập, thảo luận, đấu tố. Thể chất mệt mõi, tâm trí lúc nào cũng lo sợ cho bản thân, cho gia đình, và cho chồng. Thai nhi càng lúc càng phát triển nên tôi thèm ăn lắm, nhưng bụng thì lúc nào cũng đói, dinh dưỡng chẳng có, áp lực càng lúc càng nặng và rồi hai chân tôi bị qụy, chỗ kín bị ra máu, không được chữa trị hoặc thuốc men. Tôi đuối sức! Trước tình trạng sức khỏe tồi tệ và mạng sống của tôi bị đe dọa, ngày 12.8.75 Cộng sản (CS) thả tôi về với lý do: "tạm hoãn quản huấn vì sắp đẻ" (nguyên văn)

Về đến nhà thì ba mẹ và các em nhỏ của tôi đã bị lùa ra khỏi Sài gòn theo chương trình gọi là hồi hương lập nghiệp tại Sa-Đéc. Sức khỏe quá yếu, không đi được tôi đành ở lại căn nhà củ (bấy giờ thì gia đình thím tôi đang ở). Đến đầu tháng 9.75 đau chuyển bụng, tôi đến bảo sanh viện Từ Dũ. Sau khi sinh cháu bé, tôi mệt lắm, nhưng gắng gượng xem mặt cháu, biết cháu là gái, thấy khuôn mặt con hao hao giống bố, lòng mình dâng nỗi nhớ chồng và dào dạt thương con, tôi ôm con vào lòng và ngất đi vì bị băng huyết. Tỉnh dậy tôi trở về tâm trạng củ, May mắn cho tôi là CS chưa kịp đưa người của chúng vào nên nhân viên và bác sĩ vẫn còn tấm lòng nhân ái và phong cách Miền Nam và nhờ đó tôi thoát khỏi lưỡi hái tử thần. Vì lý lịch, nên tôi bị tống ra khỏi bịnh viện sau 4 ngày mặc dầu tôi còn yếu và cháu bé gầy guộc chỉ được 2kg. Tôi lại phải bé cháu tìm đường về Sa Đéc.

Khi chiếc tàu đò đậu trước cửa nhà, lòng tôi càng thêm não nề. Đây là khu hoang địa, xưa kia là khu oanh kích tự do và không có dân cư, vì thế vùng nầy có rất nhiều hố bom. Thấy gia đình lam lũ, tôi vô cùng xót sa, vì vậy tôi ráng sức phụ giúp gia đình và tôi lại thêm lần nữa ngã quỵ. Đúng vào thời gian nầy, khi cháu được hơn một tháng thì mẹ con tôi bị bắt trở lại trại giam.

Sáng hôm ấy ,đang cho con bú, tôi nghe tiếng ghe máy và tiếng người, rồi tiếng chân dồn dập nhảy lên bờ. chạy phía nhà tôi. Sống trong vùng cộng sản kiểm soát tâm trạng tôi luôn luôn hồi hộp lo sợ. Đang còn hoang mang thì tôi đã thấy họ bao quanh nhà tôi, những mũi súng chĩa thẳng vào mẹ con tôi. Tôi nghe đạn lên nòng và tiếng ra lịnh của tên chỉ huy:

- Các đồng chí vào vị trí sẳn sàng tác chiến.

Sau đó tiếng quát ra lịnh:

- Chị Lê Thị Xuân, tuyệt đối tuân theo mệnh lệnh, không được chống đối, chấp hành lệnh quản chế, thì sẽ đuợc cách mạng khoan hồng!

Tiếp theo là hai tên có võ trang tiến sát vào giường mẹ con tôi. Tôi biết là tôi đã bị bắt. Tôi không sợ, nhưng tôi thương con quá, phần không muốn phải xa con, phần sợ con phải chịu cảnh lao tù. Tôi thật sự lúng túng vì cả nhà tôi đang làm ngoài ruộng. Tôi ngỏ ý chờ người nhà tôi về... Nhưng chúng nhất định không cho. Bị thúc hối quá cấp bách; tôi chỉ viết vội là đã bị bắt lại cho gia đình biết, rồi gom nhanh ít tả lót, ít quần áo, vật dụng cho hai mẹ con và theo chúng xuống xuồng máy giữa hai hàng súng “dàn chào bảo vệ” của chúng. Sau nầy tôi biết tên hung tợn chỉ huy cuộc vây bắt hai mẹ con tôi tên là Hiếu. Tôi đã có lần gặp hắn tại sài gòn trong nhà người cùng quê với mẹ tôi. Người nầy là SQ Quân Lực VNCH che chở cho hắn trốn quân dịch, lúc ấy hắn làm phụ thợ hồ. Trước ngày tôi định cư tại Mỹ thì hắn là Phó chủ tịch Nông nghiệp huyện Thạnh Hưng, tỉnh Đồng tháp và dĩ nhiên là rất hống hách, ngang tàng và giàu có.

Bọn chúng chở hai mẹ con tôi về trại giam Đám Lát thuộc huyện Lấp Vò, Tỉnh Đồng Tháp. Trại giam nằm trên gò đất, chung quanh có nhiều hàng rào giây kẽm gai bao bọc, chúng cẩn thận gài mìn và chất nổ đề phòng sự trốn trại của tù. Trại nầy giam đủ thứ thành phần từ SQ chế độ củ, tôn giáo, đảng phái chính trị…đến thường phạm. Vì có con nhỏ nên chúng cho mẹ con tôi ở riêng một góc xó nhà bếp. Vách nhà làm bằng đất sình trộn với trấu, nên hôi hám và nhiều bụi dơ; gió mang theo hơi nóng làm rát da. Tôi mượn nhà bếp hai tấm bao bố gạo làm chiếu và mền đắp cho con, còn mình thì nằm hẳn trên đất. Mỗi buổi chiều mẹ con tôi được nữ quản giáo dẫn xuống một cái đìa nhỏ để tắm giặt. Vì cái đìa nhỏ nầy khi nước triều cường mới có chút ít nước từ sông cái tràn vào, do vậy mà những chất dơ bẩn không kịp thóat ra, vì thế nước có màu đen của dơ, màu váng của phèn; mùi hôi thối luôn luôn phản phất, đó cũng là mần mống bịnh hoạn.

Thức ăn không đủ nuôi cơ thể thì làm sao có sữa để nuôi con! Vì thế, các bạn tù đồng ý cho tôi mỗi ngày được lưng chén nước cơm có lẫn dăm hạt gạo đang sôi để phụ cùng với giòng sữa hiếm hoi nuôi con. Phải sống trong hoàn cảnh tù đày dưới chế độ cộng sản mới hiểu thế nào là đói, mới hiểu giá trị miếng ăn và mới hiểu đó là sự hy sinh, là tấm lòng nhân ái mà Xã hội Quốc Gia đã giáo dục cho họ.Tôi biết ơn các bạn tù, cơn đói không lúc ngưng dày vò, trí óc chỉ ước mơ đến chưyện ăn, như mơ được một chén cơm lưng, thẻ đường, hột muối, giọt mỡ. Ôi miếng ăn sao “vĩ đại” đến thế!

Ngoài cái đói triền miên hành hạ, tôi lại phải đối phó với muỗi. Khi bóng đen tràn tới cũng là lúc từng đàn muỗi xuất hiện. Chiếc mùng củ lúc mang theo, bây giờ cũng rách mục như số phận làm người trong xã hội “thiên đường” cộng sản.

Tôi ngậm ngùi thương con, tôi lo cho sự an nguy của chồng, tôi lo cuộc sống lao đao vất vả của gia đình, thấy nhớ ba mẹ và các em thơ dại của tôi, tôi tội nghiệp cho bà mẹ chồng hiền lành và nỗi bất hạnh triền miên đè lên số phận bà. Dường như giọt lệ lúc nào cũng lưng lưng trong khóe mắt, thế nhưng miệng tôi thì lúc nào cũng phải nói những điều trái ngược. Tôi cảm thấy danh dự xúc phạm.

Do thiếu thốn vật chất, tinh thần hoang mang lo sợ cho tương lai mờ mịt tối tăm, và thương nhớ người thân - tôi mõi mòn và dần dần kiệt sức, con tôi thì còm cõi, yếu ốm và những bệnh do thiếu dinh dưỡng, do môi trường dơ bẩn cùng một lúc “hiệp đồng” tấn công trên cơ thể èo uột của tôi và của cháu. Lúc nầy thì con tôi tóc bết dính và lầy lụa mũ máu vì bị sài lở, toàn thân cháu nổi lên những mụn nhọt nhỏ li ti như muỗi đốt, móng tay như bị long và sứt rớt ra. Tôi lo qúa, có lần tôi đành gạt nước mắt chịu nhục, hạ mình xin thuốc cho cháu; nhưng bọn người lòng thú ấy dững dưng, lạnh lùng và dường như trong ánh mắt chúng có đôi chút hả hê của lòng thù hận. Ôi đồng bào tôi đấy, ôi phẫm cách và lòng khoan hồng “cách mạng!” Sự tàn nhẫn kinh khiếp ấy của giống “người” cộng sản làm ý chí tôi bỗng dưng phát triển mãnh liệt. Tôi hối hận về sự cầu cứu ấy và tự nhủ lòng sẽ không bao giờ cầu xin chúng, tôi dấu nỗi uất hận, không để lộ niềm đau. Dù chưa biết phải làm gì, nhưng tôi thấy tinh thần của lý sinh tồn và lòng tự trọng trong tôi vững vàng lắm!

Sắp đến ngày 2 tháng 9, ngày “quốc khánh” của chúng, một phái đoàn không biết từ đâu và cấp nào đến thanh tra. Một người trong bọn họ thoáng dừng lại trước mẹ con tôi, chúng phải bịt mũi vì mùi hôi từ chúng tôi. Có lẻ nhờ thế mà hôm sau, ngày 30.8.76 mẹ con tôi được chúng thả ra về với ba năm quản chế.

Về đến nhà, toàn cả gia đình tôi sống héo hắc, cùng cực vất vả, thiếu thốn, tôi đã hiểu tại sao gần năm qua tôi không có thư từ tin tức gia đình và tôi lại khóc, lòng tự trọng thúc đẩy tôi lao hết sức mình cho gia đình, cho đứa con muôn ngàn yêu dấu. Cậu em trai kế tôi, có gia đình, còn ở Sài gòn cho tôi hay rằng người mẹ chồng hiền lành của tôi đã chết! Tôi thương và mừng cho bà đã thóat được cái thiên đường man rợ của lũ “vượn người cộng sản” Tôi nguyện cầu cho bà sớm được về cõi Phật như lòng bà hằng mong ước. Tôi xót xa cho chồng và mẹ chồng trong cuộc chia tay vĩnh viễn không được gặp nhau, không được có mảnh khăn trắng ghi nhớ công ơn của mẹ hiền, không được cầm tay đứa con trai út mà bà nuôi nhiều kỳ vọng. Bỗng dưng tôi thở dài ngao ngán cho kiếp nhân sinh trong chế độ cộng sản.

Gần sáu năm sau kể từ ngày tôi được thả ra lần thứ hai thì chồng tôi mới được thả về. Giây phút đầu tiên gặp lại nhau, tôi quá đỗi bất ngờ và cũng quá xúc động. Toàn thân tôi điếng lặng. Tôi không nhúc nhích, cử động gì được, nhưng giọt lệ cứ trào ra, lăn dài xuống đôi gò má thanh xuân nhưng đã sớm tàn phai vì thống thiết đau buồn, thương nhớ.

Nhìn cảnh nhà sa sút nghèo khổ và cũng vì có lần quá cơ cực tôi có ý định cùng với chồng con quyên sinh, nên ngay hôm sau ngày sum vầy chồng tôi bắt tay ngay vào cuộc sinh tồn. Dù cường quyền địa phương ngăn cản, luôn tìm cách tạo bất an, gây phiền nhiễu, khó khăn, anh vẫn quyết chí phấn đấu từ làm thuê, vác mướn, bán dạo…gia đình tôi lần hồi bước dần ra cảnh bần hàn. Nhưng tai họa lại ập đến! Bởi lao nhọc, thiếu thốn và di hại trong lao tù, chồng tôi ngã bịnh nặng. Bác sĩ cho biết một lá phổi anh bị khô nước, màng phổi bị dày dính nên kéo và làm trái tim bị lệch và thòng xuống, có dấu hiệu bị sạn thận, xơ gan. Bao nhiêu tiền bạc do công lao và tiện tặn dành dụm được đành phải bỏ hết ra để giành mạng sống của anh. Khi đồng bạc cuối cùng ra đi thì may thay, tôi gặp được người chị cả của chồng tôi, hai chị em thất lạc từ thuở anh chưa chào đời. Nhờ chị, chúng tôi thoát nạn. Cũng kể từ đó, đời sống tinh thần và vật chất của chúng tôi được an ủi, khuyến khích và nâng đỡ. Chị trở thành người mẹ thứ hai của chồng tôi.

Bây giờ nhớ lại và kinh rợn chuỗi ngày sống dưới ách bạn tàn khắc nghiệt cộng sản, lòng bùi ngùi thương cảm cho những người còn trong nanh vuốt man rợ cộng sản. Xin thành kính nghiêng mình trước những bậc anh hùng đã ngã xuống vì muốn cứu nỗi bất hạnh của quê hương, xin được khóc những giòng lệ cho những oan khuất tội tình của đồng bào tôi bị bàn tay máu của cộng sản áp bức khống chế.

Xin cúi đầu tưởng niệm hằng triệu chiến sĩ Quốc Gia, con yêu của Tổ Quốc Việt Nam đã không tiếc máu xương vì sự an toàn và phát triển cho quê hương. Xin tưởng niệm 58 ngàn con yêu của Hiệp Chủng Quốc Hoa kỳ vĩnh viễn nằm xuống trong cuộc chiến đấu cho công lý và tự do trên quê hương tôi.

Xin cám ơn lòng hào hiệp của nhân dân và chính phủ Hoa kỳ đã cứu vớt và đưa chúng từ nơi tối tăm bi thảm, nơi tầng cuối cùng của địa ngục trần gian đến vùng đất hứa, nơi tuyệt đối tôn trọng nhân phẩm con người.

Xin cám ơn những ân nhân, vì tình nhân ái, vì nghĩa Đồng Bào mà điển hình là bà Khúc Minh Thơ và hội Gia Đình Cựu Tù nhân Chính Trị đã không bỏ rơi chúng tôi, đã không quản ngại gian khó tốn kém cả tiền của lẫn thời gian và sức lực, đã ra sức đánh động cho Thế giới và nhất là Hoa kỳ biết nỗi thống hận ngút ngàn mà cộng sản trả thù bằng cách làm khô máu lên cuộc đời những chiến sĩ Quốc gia từng một thời dũng lược, nay đành thúc thủ.

Học theo Quý vị, chúng tôi nhất định không bỏ quên những người đang cần đến chúng tôi. Chúng tôi giữ gìn đạo lý và văn hóa Việt, chúng tôi nuôi dưỡng giáo dục các thế hệ tiếp nối về lòng nhân bản để trở thành công dân hữu dụng cho xã hội và cho sự tồn vong của Dân tộc. Thiết nghĩ đó là lời cảm ơn chân thành và thiết thực nhất.

Việt Nam là Dân tộc biết mang ơn và biết cách đền ơn. Đó là lời cuối cùng của giòng tâm sự hôm nay của chúng tôi.

Cựu Thiếu-Úy CSQG LÊ THỊ XUÂN



❏ Trước đăng: 15/5/2013
❏ Tái đăng ngày: 24/11/2017

Lê thị Xuân (Cựu nữ Thiếu Úy CSQG/VNCH)

Chuyển đăng: Trần Lê Lý

T


hế là đã 20 năm xa quê, tôi vẫn khắc khoải thương nhớ quê hương, nơi mà mỗi góc phố, mỗi con đường còn ghi đậm trong tim tôi...

Cũng như anh, người bạn đường của tôi, mỗi mùa xuân tới, là một háo hức được về thăm quê Mẹ, nhưng cũng mỗi mùa xuân tới, vẫn còn lưu lạc nơi đất khách, chúng tôi lại se sắc niềm đau vì lại thêm một lần thất hứa và lại thêm một lần hứa sẽ trở về.

Dù “tuổi già giọt lệ như sương”, trong khóe mắt cay cay nỗi ngậm ngùi. Tôi chia với anh “nỗi đau chưa được về như đã 19 lần hứa sẽ về:

Hai mươi mùa xuân nơi xứ lạ,
Hai mươi lần con hẹn sẽ về,
Con Vẫn còn nguyên bao ước nguyện
Vẫn còn nguyên vẹn khối tình quê

Nhớ buổi ôm hờn xa đất Mẹ
Trời mây trắng xóa một màu tang.
Lệ con chảy ngược vào tim máu
Xương óc con ghi lẽ bẽ bàng.

Mười chín năm dài nghe Mẹ gọi
Khắc khoải căm hờn ngập núi sông.
Đất khách bồi thương nhớ Mẹ
Ray rứt niềm đau, xé cõi lòng.

Tiếng Mẹ vực con đứng thẳng người
Giúp con tiếp bước với cha ông
Hồn thiêng quyện mãi vào hơi thở
Con quyết trở về với Quê hương.

Con nhớ nỗi buồn nơi mắt Mẹ
Mẹ ơi, con Mẹ tóc ngả màu
Sương gió làm con thêm nhớ Mẹ
Xa Mẹ, đau hoài một nỗi đau

(Tống phước Hiến - Nỗi buồn nhớ Mẹ)


Tôi, người chị cả trong gia đình có 8 người em, bố là Hạ sĩ quan Nhảy dù, mẹ tảo tần. Như những gia đình khác, cuộc sống bình thường, chúng tôi cũng được đến trường. Nhưng biến cố Tết Mậu thân, ba tôi phải giải ngũ vì bị thương nặng. Biến cố nầy lôi tôi ra khỏi học đường. Tôi gia nhập vào Lực Lượng Cảnh Sát Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa phục vụ tại “Ban Thăng Thưởng và Thuyên Chuyển” thuộc Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa (BTL/CSQG/VNCH). Tuy thế, các em tôi vẫn được tiếp tục đến trường.

Đầu năm 1973, tôi gặp một Sĩ quan mới tốt nghiệp và được BTL/CSQ VNCH chọn về phục vụ tại BT/CSQG. Qua giao thiệp, anh cho biết đã làm đơn xin ra đơn vị. Theo hệ thống hành chánh, đơn của anh nằm trong hồ sơ xin trình ký của tôi. Đơn anh viết "Tình nguyện phục vụ trên toàn lãnh thổ VNCH", gây trong tôi vài ý nghĩ. Tôi giúp anh ra khỏi BTL/CSQG.Thời gian sau, anh gởi thư cám ơn, nhờ vậy, tôi biết anh phục vụ tại một buôn trên cao nguyên, đó là vùng chướng khí, hầu hết là người Thượng, an ninh khá nguy hiểm. Tuy thế, anh vui lòng và không hối hận. Tin qua thư lại, cuối cùng chúng tôi là của nhau.

Đám cưới chúng tôi, anh về trước một ngày, hôm sau chúng tôi hưởng “Tuần trăng mật” nơi anh trú đóng, nhưng không có "tuần trăng mật" vì đêm ấy, trận đánh diễn ra ngay nơi thị trấn nhỏ bé và heo hút nầy. Sáng sớm hôm sau, tôi gấp rút về lại Sài gòn. Đó là những ngày đầu tháng 12/1974. Từ đó, tôi sống trong lo âu hồi hộp, tin tức loan đi, thất lợi nghiêng về phía chúng ta.

Khoảng đầu tháng 3/1975 lâu lâu lại có dăm ba người tìm tôi với mấy dòng chữ của anh giới thiệu họ là những chiến hữu thuộc cấp, họ cần sự giúp đỡ của tôi. Còn anh, chưa thể về như những người lính nầy. Yêu nhau gần hai năm, đám cưới trong vội vàng, thời gian sống bên nhau được tính bằng phút, bằng giờ, rồi biền biệt xa nhau. Giữa tháng 4/75 anh trở về với vẻ hốc hác phong sương, chiếc chiến y sờn rách bạc màu.

Sáng 30/4/1975, ông Dương văn Minh ra lịnh đầu hàng, tôi khóc cho vận nước. Còn anh bất động đôi mắt đỏ, giọt nước mắt của anh lặng lẻ rơi.

Sáng ngày phải đi trình diện, anh lấy mấy chiếc áo tôi mua sẵn để đón chào đứa con đầu lòng, chính tay anh thêu tên đứa con yêu sắp chào đời. Anh dặn tôi chuẩn bị cho anh ít vật dụng và khi nghe tiếng súng cướp tù thì đừng kiếm, anh quyết định tham gia vào cuộc kháng chiến mới. Biết tính anh, biết những ước mơ của anh, tôi chấp nhận định mệnh với bao khổ nhục đang chờ. Tiếng súng cướp tù không có, anh và đồng đội của anh sẽ phải gánh chịu những nghiệt ngã.

Đến trại Suối máu được khoảng tuần lễ, bên nữ chúng tôi bị đưa về Thành Ông Năm, Hóc Môn do Đoàn 500 cộng sản quản lý. Trại chia làm hai khu cho nữ Sĩ Quan Cảnh Sát và Quân đội. Chúng tôi bị chia thành nhiều nhóm, tương đương trung đội gọi là B. Chen chúc trong một diện tích quá nhỏ hẹp, phải nằm nghiêng, chẳng có mùng mền nên chúng tôi trở thành những con mồi béo bở, nơi cung cấp máu cho đàn muỗi tham lam, say máu.

Lúc nầy, tôi đang mang thai vào tháng thứ 7, thai nhi lớn dần cần dinh dưỡng để phát triển. Dinh dưỡng không có, cơ thể tôi mất dần sức đề kháng, Đã thế, môi trường sống lại quá dơ bẩn. Thiếu đói, dơ bẩn , muỗi rệp cùng tấn công, không đủ nhu cầu, con tôi hờn lẫy đạp tứ tung, Đau đớn, đói, muỗi rệp, và thù hận ti tiện từ kẻ thù làm tôi đuối sức.

Cuối tháng 8/1975, tình trạng sức khỏe của tôi sa sút trầm trọng. Sợ trách nhiệm nếu tôi chết, Ban quản lý trại giam của cộng sản tạm tha với lý do ghi trong giấy: "có thai sắp đẻ".

Gia đình tôi phải dọn đi khỏi thành phố Sài Gòn để chấp hành lệnh “hồi hương lập nghiệp”. Gia đình thím tôi dọn lại về căn nhà nầy, chú tôi còn thất lạc. Quá yếu, tôi đành phải nán lại chờ ngày sinh đẻ. Đầu tháng 9/1975 đau chuyển bụng, tôi đến Bảo sanh viện Từ Dũ. Cháu bé đầu lòng của chúng tôi cất tiếng chào đời. Tủi mừng, hân hoan và oán hận trộn lẫn trong giòng suy nghĩ. Ráng gượng nhìn, biết cháu là gái, hao hao giống bố, rồi tôi bị băng huyết... ngất xỉu. Tỉnh dậy, máu ướt đẫm cả quần áo. Tôi bị đuổi khỏi bảo sanh viện ngay khi bị phát hiện lý lịch, dù trong tình trạng hiểm nghèo. 10 ngày sau, tôi tìm đường về với gia đình.

Nơi gia đình tôi tá túc là mái lá xơ xác, dấu vết chiến tranh lưu lại, những hố bom, đạn, lựu đạn và mìn. Vì sự sống, người ta phải làm bạn với tử thần. Sức còn yếu, tôi lo cơm nước và chăm sóc các em để ba mẹ tôi có thời gian khai phá thêm đất canh tác. Cứ mỗi lần nghe tiếng nỗ, lòng tôi lại se thắt lo sợ. Tôi không thể làm gì hơn ngoài cầu xin các đấng thần linh che chở.

Một tháng sau, đang cho con bú; tôi nghe tiếng xuồng máy hướng về phía nhà chúng tôi cư ngụ, rồi tiếng la hét, tiếng chân chạy, nhà tôi bị bao vây. Tiếng lách cách lên đạn, tiếp đến là tiếng quát ra lịnh:

- Chị Lê thị Xuân, chấp hành mệnh lệnh sẽ được khoan hồng.

Chưa kịp kéo vạt áo xuống thì hai mũi súng đen đã áp sát. Tôi ghi vội mấy chữ cho gia đình biết, quơ theo vài vật dụng như tã lót, và ít áo quần. Tay bế con, vai tòn ten bị lát, hai mẹ con tôi đi giữa hàng súng lăm lăm. Chiếc tắc ráng xé nước lao đi.

Tôi bị chở đến trại giam Đám Lát. Vì là người đàn bà duy nhất có con dại, nên tôi được nằm dưới nhà bếp. Những người bạn tù cho tôi mượn mấy tấm bao bố đựng gạo, tôi trải thêm cái khăn lông tắm còn đậm mùi mồ hôi của bố cho con nằm. Chuyện vệ sinh của tù được giải quyết tại một đìa nước nhỏ. Khi nào thủy triều lên cao mới mong có chút nước từ sông cái tràn vào, vì vậy nước trong đìa là nước tù có nhiều phèn. Như bao nhiêu người tù khác, tôi đói vật vã, đói triền miên, lúc nào cũng thèm ăn, thèm từng hạt cơm rơi, từng chót mẩu khoai hà. Dinh dưỡng không có, môi trường sống dơ bẩn; tâm trạng luôn lo sợ, thương nhớ, và mong ước, tất cả tạo thành áp lực đè lên mạng sống, sức khỏe tôi sa sút theo từng ngày.

Nhìn đứa con gái yêu quý, thoi thóp thở. Cháu bị nóng sốt gần như triền miên. Nụ cười trẻ thơ đã mất từ lâu trên môi mắt thơ dại, chỉ có tiếng khóc xé lòng vì đau đớn và đói sữa. Hệ lụy của đói vì thiếu sữa là toàn thân cháu bị những nốt đỏ như muỗi chích. Chiếc mùng lúc mang theo nay đã mục rách, những con muỗi tai ác vào được, hút máu trên những những hình hài èo uột và mong manh. Tôi không phân biệt được là vết muỗi chích hay dấu hiệu của tai ương. Đầu cháu sài lỡ, những nốt đỏ phồng to hơn và khi bị vỡ thì nước nhầy màu hồng nhạt chảy và cứ thế gần như trên thân cháu không còn nơi nào là không ghẻ lở. Móng tay móng chân cháu bị thối, và sứt lìa. Tôi chẳng làm gì được cho con ngoài những dòng nước mắt. Nhìn con, nhìn mình, toàn là tủi nhục.

Tôi bất lực nhìn tử thần đang tiến sát với con. Dù biết hèn, nhưng phải tìm cách cứu con, tôi chịu nhục, hạ mình xin thuốc cho con. Đáp lại là nụ cười khẩy, ánh mắt thỏa mãn trả thù ti tiện, họ bịt mũi và xua đuổi mẹ con tôi ra xa. Có lẻ giọt lệ đã cạn hẳn, tôi nuốt uất hận và tình người vào sâu trong tiềm thức. Héo hắt, ôm con vào lòng, thương nhớ chồng vô hạn, tôi thầm hứa sẽ không bao giờ xa con. Tôi sẽ vĩnh viễn giã từ cuộc đời nầy với con nếu con tôi không còn đủ sức chống chọi với nghiệt ngã, âu đó cũng là phương cách để chúng tôi được bên nhau. Lưỡi hái tử thần vẫn thường đến thăm, cái chết đối với chúng tôi chỉ còn là vấn đề thời gian.

Bất ngờ, tuần lễ trước ngày cộng sản gọi quốc khánh. Một toán người đi ngang chỗ mẹ con tôi. Mùi hôi từ chúng tôi khiến họ khó chịu. Họ gọi tôi đến hỏi vài câu và mấy hôm sau, mẹ tôi được tha ra khỏi trại giam.

Tôi bồng con khấp khểnh trên con đường khấp khểnh đến tương lai. Một năm qua, kể từ ngày mẹ con tôi bị bắt lại, căn nhà như xiêu vẹo hơn. Ba Mẹ tôi vẫn phơi mình giữa cơn nắng gắt kiếm miếng ăn cho các con. Các em tôi chẳng biết đi đâu. Căn nhà vắng nhưng nồng ấm lạ thường.

Lấy lại được sức khỏe, tôi bế cháu về Sài gòn thăm bà mẹ chồng, và tìm cách bế con thăm chồng. Nhưng, mẹ chồng tôi đã về bên kia cõi sống. Thắp nén nhang, bế con trên tay vái lạy bà nội, nước mắt tôi thấm ướt vai áo con. Cháu bé ngây thơ nhoẻn miệng cười. Trở lại căn nhà ba mẹ tôi ngày xưa, thím tôi cho biết tin về chú, tôi nhận được mấy lá thư của chồng tôi mà thím nhận được đã khá lâu. Tôi đắn đo rồi viết thư báo anh biết tin buồn, người Me yêu kính của anh đã vĩnh viễn xa anh. Những giọt lệ thấm trên trang giấy.

Sau một năm chắt mót tiện tặn, tôi bế con ra thăm anh với ít quà. Gần một năm, không nhận được thư anh, ruột tôi như lửa đốt, tôi dắt con tìm ra trại cũ. Được biết anh đang bị cùm, kỷ luật, tôi lại khóc. Thức ăn thăm nuôi tôi nhờ các chị cũng thăm nuôi chồng chuyển lại cho những anh thiếu điều kiện. Không gặp được chồng, tôi buồn lắm, nhưng tôi không là bất ngờ vi tôi hiểu anh, tôi không phiền trách anh, trái lại lòng tôi có chút ít nhè nhẹ của sự tự hào về tư cách của chồng. Nhìn con ngủ trong vòng tay, lại thêm nhớ thương.

Sau lần bị cùm, anh chuyển trại, và cùng chung trại giam với chú tôi. Chú tôi được tha về năm trước. Chú cho biết những chuyện trong tù và ngầm cho biết chồng tôi là một trong những người khó có ngày về.

Đời tôi, trời dành cho nhiều bất ngờ. Một buổi chiều, tôi nghe tiếng máy chiếc tàu đò cặp trước bến nhà. Tôi thấy chú tôi lên trước, đưa tay cho một người khác bước lên theo. Ôi, chồng tôi đó! chồng tôi đó sao? Từ cõi chết, chồng tôi đã trở về!? Tôi chẳng còn thấy gì nữa. Không gian vần vũ rồi bất động. Không gian bất động hay chính tôi bất động? Tôi muốn chạy đến ôm người chồng còm cõi, nhưng chân tay tôi không nhấc lên được. May quá cảm xúc điếng người ấy thoáng qua khi anh ôm lấy người tôi. Tôi nhìn anh, mắt anh vẫn khô ráo, nhưng dường như có một ngấn lệ lạc loài trong tận cùng của hốc mắt.

Ngày bố đi tù, con còn trong bụng mẹ. Ngày bố về con đã lên tám. Cháu đã chịu ngồi trên chân bố. Nhìn hai cha con, tôi thấy bóng dáng hạnh phúc đang trở về. Công an xã cho biết, chồng tôi phải lập sổ trình diện và phải trình diện công an xã mỗi buổi sáng. Không được ra khỏi xã nếu không có giấy phép. Bất cứ lúc nào cũng phải có mặt nếu có lịnh gọi. Mỗi năm phải đóng 26 ngày công lao động xã hội chủ nghĩa, và phải tự túc mọi thứ từ cơm ăn thức uống thuốc men và cả dụng cụ lao động. Ban ngày anh đi làm mướn, tối lén ra chợ Sa Đéc làm phu khuân vác. Sức khỏe của anh vơi dần theo tỷ lệ ngược với đồng tiền kiếm được, cuối cùng anh gục ngã vì bạo bịnh. Phổi bị khô nước, tim bị lệch, sạn thận, bao tử, sán lãi ùa vào tấn công anh. Không còn tiền, tôi đành đau đớn nhìn anh và chờ đợi tai họa xảy đến. Nhưng lại thêm một bất ngờ. Người chị cả của anh thất lạc từ ngày anh lọt lòng mẹ. Biền biệt không tin tức. Trước đây anh có kể về chị, và anh có gặp được chị một lần khi lén công an xã ngược xuôi chèo mướn. Anh hẹn sẽ đem mẹ con tôi về thăm chị. Rồi anh bị bịnh, lời hứa kia chẳng làm sao thực hiện. Chờ lâu quá, chị tìm thăm chúng tôi. Gặp nhau trong cảnh ngộ có bóng tử thần lấp ló. Chị bao ghe và chở anh về nhà chị chạy chữa. Nhờ tận lực, chị đã giành được mạng sống của anh.

Đây là lần thứ hai, anh đứng dậy, xoay lưng với tử thần. Gia đình chúng tôi lấy lại sinh khí, tôi sinh cháu bé thứ hai và cũng là cuối cùng. Anh hết chèo ghe mướn, hết làm thuê, qua làm nghề thú y, chích dạo, làm thủ kho lò đường. Còn tôi, từ sạp bán đồ tạp hóa, thành cửa hàng bán vải, thuốc tây, dụng cụ học sinh, rồi nơi cung cấp hàng may sẳn. Đời sống sáng dần, chúng tôi trả lại nụ cười cho các con. Nhưng không may lại đến. Chính quyền xã không cho phép chồng tôi dạy Anh ngữ, tiệm thuốc tây phải dẹp, cửa hàng vải và may mặc bị trưng thu vào hợp tác xã. Họ buộc chồng tôi phải nhận những trách vụ họ giao như Kế toán tập đoàn, phó chủ nhiệm Hợp tác xã…, chồng tôi khôn khéo từ chối, không cộng tác. Chúng tôi dự tính về lại Sài gòn thì có tin hồ sơ xin tỵ nạn chính trị đã được chấp thuận và chúng tôi được gọi phỏng vấn.

Bây giờ, đoạn trường cơ cực qua. Ngẫm lại những gì chúng tôi có được là nhờ NGƯỜI và do chính mình.

Chữ Người mà tôi muốn nói là chữ NGƯỜI viết hoa. Những con người đầy ắp tình Người. Những NGƯỜI đã chia nửa trái tim cho những phận người đang bị bàn tay sắt đẩm máu của cộng sản bóp nghẹt. Xin cảm tạ những con NGƯỜI cao đẹp nầy. Chúng tôi sẽ học và theo chân quý vị. Xin được xem đó như là lời cám ơn của chúng tôi với quý vị.

Chữ NGƯỜI nầy cũng xin kính gởi những NGƯỜI lính chiến Quân Lực VNCH, những chiến sĩ CSQG/VNCH, những cán bộ bán võ trang..., đã bỏ cả thời thanh xuân, vào chốn tử sinh để bảo vệ quê hương, an bình cho xã hội, trong đó có chúng tôi. Vào tù, các anh vẫn khẳng khái và khí tiết, chúng tôi được hãnh diện là em của các anh, là vợ của một chiến hữu của các anh trong đại gia đình chiến sĩ Quốc Gia. Hãnh diện không phải vì cái tên trại tù A20 nơi giam nhốt chồng tôi, mà vì trại giam A20, trại trừng giới A20, trại kiên giam A20, thung lung tử thần A20, nơi cộng sản lập ra với mục đích đánh cướp nhân cách, hèn hóa các anh. Nhưng các anh đã giữ được nhân cách và tiết tháo.

Xin nghiêng mình chúc mừng các anh đã chiến thắng! A20 nói riêng và những trại giam tù chính trị, giam những chiến sĩ Quốc Gia, những Sĩ Quan của Quân Lực VNCH và của CS... nghĩa là những người đoạt được vinh quang chiến thắng từ máu lệ lầm than khắc nghiệt. Các anh là những đứa con yêu, những đứa con hiếu hạnh với Mẹ Việt Nam, người chồng đáng cho chị em chúng tôi khâm phục, là người cha gương mẫu. Các anh đã tuyệt vời trong mọi cảnh ngộ.

Các anh, vốn được đào tạo trong nền giáo dục nghiêng về đạo đức, khí tiết. Cuộc đời của các anh, những chiến binh VNCH đã sống trọn vẹn cho DANH DỰ - TỔ QUỐC – TRÁCH NHIỆM. Những tôn chỉ thiêng liêng đó trở thành tâm điểm, là thước đo giá trị làm người của các anh. Nhờ ý thức về Danh Dự - Tổ Quốc – Trách Nhiệm, các anh đã chiến thắng trên chiến trường và chiến thắng trong ngục tù nghiệt ngã của bạo tàn cộng sản. Hôm nay dù mái tóc trắng màu sương tuyết, các anh vẫn mỉm cười và vẫn cứ như thế hiên ngang đi vào thế trận mới, vẫn quyết tâm tranh đấu cho quê hương, vẫn quyết tâm bảo vệ giống nòi.

Trân trọng kính chào và kính chúc hạnh phúc đến với gia đình các anh chị.

Lê thị Xuân
(Cựu nữ Thiếu Úy CSQG/VNCH)

^ TRỞ LÊN ^
» TRANG CHỦ


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét